Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Để giải quyết tốt các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây, cần chú ý những vấn đề sau đây:

1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ

Nguồn nguy hiểm cao độ là các dạng vật chất mà tự thân nó ẩn chứa khả năng tạo ra những mối nguy hiểm đối với môi trường xung quanh. Trong lĩnh vực dân sự, nguồn nguy hiểm cao độ được giới hạn lại chỉ là những đối tượng là tài sản mà chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng có những biện pháp mang tính chuẩn mực nhằm phòng ngừa và kiểm soát tính nguy hiểm của nó.

Theo khoản 1 điều 623 BLDS 2005 đã có quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.

Theo Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán toàn án nhân dân tối cao và các văn bản pháp luật khác có liên quan thì nguồn nguy hiểm cao độ được xác định như sau:

a) Phương tiện giao thông vận tải cơ giới

Hiện tại chưa có quy định nào của pháp luật chỉ rõ khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới”. Tuy nhiên, luật giao thông quy định như sau:

- Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ: theo khoản 18, điều 3, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định “Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ( sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô, máy kéo; rơ mooc hoặc sơ mi rơ mooc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự”.

- Phương tiện giao thông trên mặt nước: thì theo điều 11 Luật Hàng hải Việt Nam năm 2005: “Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi  di động khác chuyên dùng hoạt động trên biển” và khoản 7, Điều 3 Luật giao thông đường thủy nội địa năm 2004 quy định: “Phương tiện thủy nội địa (sau đây gọi là phương tiện) là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên đường thủy nội địa”.

- Phương tiện giao thông đường không: Khoản 1, Điều 13, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 quy định “Tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiệt bị bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt Trái Đất”

- Phương tiện giao thông vận tải đường sắt: theo khoản 20 Điều 3 Luật đường sắt năm 2005 quy định: “Phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, xe toa, xe toa động lực, phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt”.

Có thể hiểu phương tiện giao thông hoạt động bằng động cơ thì đều là nguồn nguy hiểm cao độ.

b) Hệ thống tải điện

Theo khoản 24 Điều 3 Thông tư 12/2010/TT-BCT ngày 15/4/2010 của Bộ Công thương thì hệ thống điện truyền tải là hệ thống bao gồm bao lưới điện truyền tải và các nhà máy điện đấu nối vào lưới điện truyền. Theo quy định tại Luật điện lực 2004 thì: “…3. Lưới điện là hệ thống đường dây tải điện, máy biến áp và trang thiết bị phụ trợ để truyền dẫn điện. Lưới điện, theo mục đích sự dụng và quản lý vận hành, được phân biệt thành lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối…

c) Nhà máy công nghiệp đang hoạt động

Nhà máy công nghiệp đang hoạt động là tổ hợp công trình, cơ sở sản xuất của nền công nghiệp; thường sử dụng máy móc với quy mô lớn; đang vận hành, thực hiện các chức năng theo quy trình hoạt động thông thường. Cần phân biệt rằng nhà máy công nghiệp đang ở trạng thái không hoạt động thì không phải là nguồn nguy hiểm cao độ vì nó không tạo ra nguy hiểm cho môi trường xung quanh.

d) Vũ khí

Theo quy định tại “Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ” - Ban hành kèm Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 12/8/1996 bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và các công cụ hỗ trợ.

đ) Chất cháy, chất nổ

Theo khoản 2, Điều 3 Luật phòng cháy, chữa cháy thì chất nguy hiểm về cháy, nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn hoặc hàng hoá, vật tư dễ xảy ra cháy, nổ. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không khú, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ nhất định (diêm, phốt pho, xăng dầu .v.v.). Chất nổ có khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng (thuốc nổ, thuốc pháo, thuốc súng.v.v...).

e) Chất độc

Theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Hóa chất 2007 thì hóa chất độc là hóa chất nguy hiểm có ít nhất một trong những đặc tính sau:

- Dễ nổ;

- Ôxy hóa mạnh;

- Ăn mòn mạnh;

- Dễ cháy;

- Độc cấp tính;

- Độc mãn tính;

- Gây kích ứng với con người;

- Gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư;

- Gây biến đổi gen;

- Độc đối với sinh sản;

- Tích luỹ sinh học;

- Ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ;

- Độc hại đến môi trường.

g) Chất phóng xạ

Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh An toàn và kiểm soát bức xạ 1996, chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt độ phóng xạ riêng lớn hơn 70 kilo Beccơren trên kilogam (70 kBq/kg). Nã là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học, có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy gây bệnh hoặc gây nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.

h) Thú dữ

Theo từ điển tiếng Việt, “thú dữ” là loài thú lớn, rất dữ, có thể làm hại con người.

Ngoài ra, có thể có các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định (nếu có).

2. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra những thiệt hại về tài sản, về sức khỏe, về tính mạng thì phải bồi thường.Tuy nhiên, cần xác định ai là người chịu trách nhiệm bồi thường.

a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.

b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.

Ví dụ: Các thoả thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:

- Thoả thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;

- Thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;

- Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.

Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô, B không có bằng lái xe ô tô, nhưng A giao xe ô tô cho B lái, khi lái xe B đã gây thiệt hại cho C thì A có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C.

c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

Ví dụ: Xe mô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe môtô) gây ra.

- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.

d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).

Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:

- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.

- Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.


Bài viết xem thêm