Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm là trách nhiệm dân sự của người thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi làm cho người bị thiệt hại chết. Theo tinh thần Điều 610 BLDS 2005 và tiểu mục 2, mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:

1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết

Hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng của người khác, có thể làm cho người bị thiệt hại chết tức khắc ngay tại chỗ, có trường hợp người bị hại chết trên đường chở đi cấp cứu, có trường hợp điều trị một thời gian người bị thiệt hại chết. Cho nên, tùy theo sự việc xảy ra cụ thể có chi phí cần thiết cho việc cứu chữa, điều trị, bồi dưỡng, chăm sóc người thiệt hại có hay không, nếu có thì cụ thể số tiền chi phí; những thu nhập bị mất do điều trị của người bị thiệt hại hoặc người chăm sóc cho người bị thiệt hại.

Phương pháp xác định thiệt hại đối với chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc cho người bị thiệt hại trước khi chết như xác định chi phí cứu chữa điều trị, bồi dưỡng, chăm sóc, thu nhập bị mất, bị giảm... trong thời gian điều trị đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm.

2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng

Chi phí tiền bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân.

Các khoản chi phí phải hợp lý: Là những khoản chi theo thông lệ chung mà thông thường theo phong tục tập quán tại địa phương khi mai táng phải chi như quan tài, vật dụng dùng cho việc khâm liệm mà ở nơi đó khi mai táng người ta thường sử dụng (không phải là loại đắt tiền). Đây là vấn đề rất khó, rất phức tạp, khi giải quyết Tòa án cần căn cứ nhu cầu thực tế cần thiết ở địa phương để xác định tính hợp lý.

Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết

Tiền cấp dưỡng cho những người mà người người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng khi họ còn sống là khoản tiền mà người gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ thay nạn nhân để nuôi dưỡng người mà khi còn sống nạn nhân có nghĩa vụ phải cấp tiền nuôi dưỡng.

Khoản tiền cấp dưỡng này nhằm đảm bảo cho những người được cấp dưỡng có một cuộc sống như lúc nạn nhân còn sống cho đến khi họ trưởng thành hoặc có thu nhập tự nuôi sống bản thân đến khi họ chết… Mức bồi thường khoản tiền này có thể thay đổi theo yêu cầu của người gây thiệt hại hoặc người được hưởng khoản tiền cấp dưỡng khi điều kiện thực tế thay đổi, không phải mọi trường hợp xâm phạm đến tính mạng thì người gây thiệt hại đều phải bồi thường khoản tiền cấp dưỡng. Trong một số trường hợp sau khi nạn nhân chết một thời gian thì trách nhiệm này mới phát sinh.

Ví dụ: Trước khi nạn nhân chết thì vợ của nạn nhân đang mang thai được sáu tháng, ba tháng sau đứa trẻ mới ra đời. Như vậy, khi con nạn nhân ra đời thì người gây thiệt hại mới có trách nhiệm cấp dưỡng cho đứa trẻ.

a) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng:

Theo pháp luật quy định thì người được hưởng tiền cấp dưỡng trong trường hợp nạn nhân chết là những người: không có khả năng lao động và không có thu nhập hoặc thu nhập nhưng không đủ nuôi sống bản thân; được nạn nhân cấp dưỡng thường xuyên khi còn sống. Từ những quy định này có thể xác định đối tượng được hưởng khoản tiền cấp dưỡng là những người sau:

- Vợ hoặc chồng của người bị xâm phạm tính mạng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại (người đã chết) đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên của người bị xâm phạm tính mạng nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

- Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

b) Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm người đang thực hiện  nghĩa vụ cấp dưỡng bị xâm phạm tính mạng:

Trường hợp nghĩa vụ cấp dưỡng của người bị thiệt hại phát sinh sau khi người đó chết thì thời điểm bắt đầu bồi thường cấp dưỡng kể từ khi phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.

c) Về mức cấp dưỡng:

Xác định mức cấp dưỡng là một vấn đề khó khăn và phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm đây là vấn đề các bên thường tranh chấp. Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc xác định mức cấp dưỡng đối với người được cấp dưỡng do tính mạng của người bị cấp dưỡng bị xâm phạm. Tuy nhiên, theo Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:

“Điều 53 Mức cấp dưỡng

1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.”

Theo điểm b mục 11  Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP năm 2000 hướng dẫn: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.’’

Theo Điều 16 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định:

“Điều 16. Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng

1. Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật Hôn nhân và gia đình là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó.

2. Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng theo quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật này được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng.

3. Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người, mà trong số đó có người có khả năng thực tế và có người không có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại khoản 1 Điều này, thì người có khả năng thực tế phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng theo quy định tại Điều 52 của Luật Hôn nhân và gia đình.”

Vì đây là trường hợp người gây thiệt hại tính mạng thực hiện nghĩa vụ của người thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người bị hại đã chết nên khi xác định mức cấp dưỡng nên hòa giải để các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì căn cứ những nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng như mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng; căn cứ khả năng của người thực hiện cấp dưỡng mà quyết định.

d) Về thời gian hưởng cấp dưỡng:

Theo khoản 2 Điều 612 BLDS quy định: thời gian hưởng nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:

- Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi; trừ trường hợp người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân.

- Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

e) Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.

Tuy nhiên, việc xác định đối tượng áp dụng, thời gian áp dụng cũng như mức cấp dưỡng của Tòa án không phải luôn cố định nhưng trên thực tế nếu có sự thay đổi nào khiến cho việc xác định đó không còn phù hợp nữa thì người gây thiệt hại cũng như người được hưởng áp dụng có thể đề nghị với Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét và thay đổi cho phù hợp.

4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm

a) Khác với trường hợp sức khỏe bị thiệt hại, trong trường hợp thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm người phải gánh chịu những mất mát về tình cảm, tổn thất về tinh thần không phải là người bị thiệt hại mà là những người “thân thích, gần gũi của nạn nhân”. Vì vậy, khi giải quyết về tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm thì cần xác định đối tượng bị tổn thất tinh thần  như sau:

- Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

- Trường hợp không có những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại.

b) Mức bồi thường chung đối với khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…

Khi giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng bị xâm phạm phải đưa tất cả những người cùng hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại  người mà người bị hại trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng người bị hại  vào tham gia tố tụng.


Bài viết xem thêm