Các nhánh luật pháp

Các nhánh luật pháp

Những nhánh luật phong phú không ngừng sinh sôi nảy nở. Khi đời sống xã hội biến đổi, luật pháp hiếm khi bị tụt hậu – phát minh và xác định các khái niệm, quy tắc mới, giải quyết các tranh chấp chắc chắn nảy sinh. Do đó, thế giới pháp lý can đảm đầy mới mẻ của chúng ta tiếp tục mở ra các chủ đề mới lạ: luật vũ trụ, luật thể thao, luật giới tính. Tuy nhiên, cốt lõi của hầu hết các hệ thống pháp luật là những nguyên tắc cơ bản bắt nguồn từ gốc rễ của luật: luật hợp đồng, luật bồi thường dân sự, luật hình sự và luật tài sản. Hạt nhân đó phải được bổ sung vào một loạt các ngành luật, bao gồm luật hiến pháp và hành chính, luật gia đình, luật quốc tế công và tư, luật môi trường, luật công ty, luật thương mại, luật bằng chứng, kế thừa, luật bảo hiểm, luật lao động, luật sở hữu trí tuệ, luật thuế, luật chứng khoán, luật ngân hàng, luật hàng hải, luật phúc lợi, luật nhân quyền. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét xử hình sự và dân sự, cũng như các vấn đề thực tiễn khác (chẳng hạn như chuyển nhượng đất đai, soạn thảo di chúc), các quy tắc tố tụng phức tạp đã được phát triển, sinh ra những tiểu loại riêng của chúng.

Luật công và luật tư

Sự phân biệt giữa luật công và luật tư là cơ bản, đặc biệt là đối với hệ thống luật dân sự của Châu Âu Lục địa và các thuộc địa cũ của nó. Mặc dù không có thỏa thuận chung về việc vạch ra ranh giới chính xác như thế nào hoặc ở đâu, nhưng công bằng mà nói, luật công điều chỉnh mối quan hệ giữa công dân và nhà nước, trong khi luật tư liên quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân hoặc nhóm trong xã hội. Vì vậy, luật hiến pháp và luật hành chính là ví dụ nguyên mẫu của luật công, trong khi luật hợp đồng là một trong nhiều chi của luật tư. Luật hình sự, vì nó chủ yếu liên quan đến việc truy tố của nhà nước đối với người phạm tội, nên cũng thuộc về luật công. (Tất cả ba nhánh được mô tả bên dưới.) Tuy nhiên, khi nhà nước ngày càng xâm nhập nhiều hơn vào cuộc sống của chúng ta, ranh giới giữa luật công và luật tư ngày càng mờ nhạt.

Luật hợp đồng

Hợp đồng là yếu tố không thể thiếu của đời sống xã hội. Khi bạn đồng ý gặp tôi để uống café, mượn sách, hoặc đưa tôi đi làm, chúng ta đã ký một thỏa thuận. Nhưng luật sẽ không bắt buộc bạn phải đến quầy bar, phải trả sách cho tôi hoặc đón tôi bằng xe của bạn. Những thỏa thuận xã hội này, nếu vi phạm chúng cũng sẽ gây ra sự bất tiện đáng kể, khó khăn và thậm chí là phí tổn, song chúng không đạt tới mức được xem như là hợp đồng theo như cách hiểu của hầu hết các hệ thống pháp luật.

Một trong những điểm nổi bật của xã hội tự do là quyền tự chủ dành cho các thành viên nhằm đạt được sự mặc cả có lợi mà họ lựa chọn, miễn là không làm hại người khác. Quyền tự do hợp đồng cũng có thể được bảo vệ trên cơ sở thực tế: bằng cách thực thi hợp đồng phù hợp với giá trị mà thị trường đặt ra, các nguồn lực – hàng hóa và dịch vụ – có thể được mua bởi những người đặt giá trị cao nhất vào chúng. Đôi khi, điều này được khẳng định sẽ tạo ra sự phân bố công bằng các nguồn tài nguyên khan hiếm.

Những người ủng hộ thị trường tự do coi các cá nhân là người đánh giá tốt nhất về phúc lợi của họ. Vào thế kỷ 19 – đặc biệt là ở Anh – luật hợp đồng, với tư cách là yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ trao đổi tối ưu, đã được phát triển ở mức tinh vi để theo đuổi giá trị cốt yếu này của đời sống thương mại và công nghiệp (một số người nói là khó hiểu). Đúng là không thể tưởng tượng được nếu kinh doanh mà không có các quy tắc hợp đồng, song cũng không thể tránh khỏi sự bất bình đẳng về quyền thương lượng ở bất kỳ một xã hội nào. Về lý thuyết, hợp đồng với công ty điện lực cung cấp điện cho nhà tôi coi cả hai bên ngang nhau. Nhưng đây không phải là trường hợp đơn giản. Tôi hầu như không có khả năng được mặc cả các điều khoản của thỏa thuận được xem là hợp đồng mẫu chuẩn. Giống như một võ sĩ quyền Anh hạng lông (võ sĩ quyền Anh cân nặng từ 53,5 kg đến 57 kg, tương đương từ 118 pao đến 126 pao, trên võ sĩ hạng gà) tham gia cuộc thi với một đội gồm những người hạng nặng. Do đó, luật hợp đồng sẽ giảm bớt khó khăn của những điều khoản được gọi là “không công bằng” theo luật người tiêu dùng và bằng các phương tiện thể chế khác nhằm cố gắng khắc phục sự cân bằng, chẳng hạn như trao quyền cho các tòa án, song cấm tòa thực thi các điều khoản vô độ và chỉ thực thi các điều khoản “hợp lý”.

Để tạo thành một hợp đồng ràng buộc, thông thường, pháp luật yêu cầu các bên tham gia thỏa thuận phải thực sự có ý định tạo ra các quan hệ pháp luật. Phá vỡ thỏa thuận hầu như luôn bị coi là trái đạo đức, nhưng nó chỉ dẫn đến hậu quả pháp lý khi các điều kiện nhất định được đáp ứng, dù là ở một số quốc gia dân luật (chẳng hạn như Pháp, Đức và Hà Lan), một người có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý – ngay cả trước khi lời đề nghị của anh ta được chấp nhận – vì đã không thương lượng một cách thiện chí.

Thông luật thường chia thỏa thuận thành bên chào hàng và bên chấp nhận chào hàng. Bằng cách đưa ra một chào hàng, “bên chào hàng” – bằng ngôn từ, lời nói, fax, email hoặc thậm chí bằng hành vi – thể hiện sự sẵn sàng ràng buộc trong hợp đồng khi nó được chấp nhận bởi người mà lời chào hàng đề cập đến, gọi là “người được chào hàng”. Ví dụ, Adam quảng cáo chiếc xe của mình với giá bán 1.000 USD. Eve đề nghị anh ta 600 USD. Adam trả lời mình sẽ chấp nhận giá 700 USD. Đây là lời hoàn chào hàng mà rõ ràng Eve có thể tự do chấp nhận hoặc từ chối. Nếu cô ấy chấp nhận nghĩa là đạt được thỏa thuận và có một hợp đổng ràng buộc với điều kiện thỏa mãn các yêu cầu pháp lý khác. Phân tích này là phương pháp hữu ích để xác định thỏa thuận đã thực sự diễn ra hay chưa, thật hay giả; thường rất khó để nói ai là người chào hàng và ai là người được chào hàng. Ví dụ, có thể đạt được thỏa thuận cuối cùng ngay trước các cuộc đàm phán kéo dài liên quan đến nhiều đề xuất và phản đề xuất của các bên. Do đó, mô tả quy trình cấu thành chào hàng và chấp nhận chào hàng vốn là điều hư cấu.

 

Hàng trăm trường hợp đã phải vật lộn với các tình huống thực tế vì không nằm trong mô hình chào hàng và chấp nhận. Ngoài ra, còn có một khó khăn lặp đi lặp lại khi bên chào hàng bị ràng buộc bởi lời chào hàng của chính mình. Thông luật quy định: cho đến khi bạn chấp nhận lời chào hàng của tôi, tôi có quyền rút lại lời chào hàng đó. Mặt khác, luật pháp Đức, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Áo và Bồ Đào Nha quy định: tôi bị ràng buộc bởi lời chào hàng của chính mình; tôi không thể đơn giản thu hồi nó mà không bị trừng phạt. Rút lại lời chào hàng có chủ đích không mang tính hiệu lực pháp lý. Luật Pháp và luật Ý ở vị thế trung lập. Bộ luật Dân sự Ý quy định: một chào hàng không được thu hồi trước khi hết thời hạn quy định. Nếu không có thời hạn được chỉ định trong chào hàng thì cho đến khi được chấp nhận, lời chào hàng mới có thể rút lại. Nhưng nếu người được chào hàng đã tin tưởng vào lời chào hàng một cách thiện chí, anh ta có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại do tổn thất trong việc chuẩn bị thực hiện phần của mình trong cuộc thương lượng.

Thông luật yêu cầu bằng chứng không chỉ có ý định nghiêm túc nhằm ràng buộc về mặt pháp lý mà còn bởi vì sự cân nhắc, một khái niệm không có trong hệ thống luật dân sự. Cân nhắc là yếu tố mặc cả của thỏa thuận: mỗi bên đều có thể đạt được điều gì đó từ thỏa thuận – nếu không họ đã không tham gia vào thỏa thuận đó. Những yếu tố này được minh họa qua trường hợp điển hình của Công ty Carlill kiện Carbolic Smoke Ball vào năm 1892. Công ty Carbolic Smoke Ball đã quảng cáo sản phẩm của mình – một quả bóng khói mà họ tuyên bố sẽ bảo vệ người dùng khỏi mắc bệnh cúm. Bất kỳ ai bị “cúm sau khi sử dụng thiết bị, Công ty Carbolic Smoke Ball sẽ tiến hành trả 100 Bảng cho người đó. Quảng cáo như sau:

Phần thưởng 100 Bảng sẽ được Công ty Carbolic Smoke Ball trả cho bất kỳ người nào mắc bệnh cúm ngày càng gia tăng, cảm lạnh hoặc bất kỳ bệnh nào do cảm lạnh, sau khi đã sử dụng bóng ba lần mỗi ngày trong hai tuần theo hướng dẫn in kèm mỗi trái bóng. 1000 Bảng được ký quỹ ở Ngân hàng Liên minh, Phố Regent nhằm thể hiện sự chân thành của chúng tôi trong vấn đề này.

Ảnh 5. Bất chấp các cam kết của công ty, bà Carlill đã mua và sử dụng quả cầu khói của họ theo lời quảng cáo, tuy nhiên, bà vẫn mắc bệnh cúm. Trường hợp này đã trở thành huyền thoại ở Anh thế kỷ 19, nó thiết lập nên những điều kiện cơ bản để hình thành hợp đồng hợp lệ

Bà Carlill, dựa vào lời hứa này, đã mua một quả bóng và sử dụng nó theo hướng dẫn. Tuy nhiên, bà ấy vẫn mắc bệnh cúm. Công ty tuyên bố không có hợp đồng nào có hiệu lực giữa họ và bà Carlill, vì lời chào hàng của họ chưa được chấp nhận – bà đã không thông báo cho công ty mình đã chấp nhận lời chào hàng của họ. Phía công ty không tranh luận và cũng không cân nhắc bất cứ gì, vì họ không nhận được bất kỳ lợi ích nào từ việc người mua sử dụng bóng khói sau khi nó đã được bán. Cả hai lập luận đều bị tòa bác bỏ. Bởi vì, quảng cáo cấu thành lời chào hàng về một hợp đồng đơn phương giữa công ty và bất kỳ ai đã nhìn thấy quảng cáo, đã hành động dựa trên đó. (Thông thường, các hợp đồng là song phương: chúng liên quan đến sự trao đổi lời hứa giữa hai bên.) Tuy nhiên, trong trường hợp này, vì bà Carlill đã thỏa mãn các điều kiện nên bà có quyền thực thi hợp đồng. Việc thông báo cho công ty bà đã sử dụng quả bóng là một phần của sự chấp nhận. Hơn nữa, bằng cách gửi 1000 Bảng Anh vào ngân hàng để “thể hiện sự chân thành của họ trong vấn đề này”, công ty rõ ràng đang đưa ra một lời chào hàng nghiêm túc. Để xem xét, tòa án đã phán quyết rằng hành vi của bà Carlill đã cấu thành sự cân nhắc bởi lời hứa trả cho bà phần thưởng 100 Bảng Anh.

Theo cách đó, tôi đồng ý bán cho bạn chiếc xe của tôi; Tôi đứng ra để đạt được giá mua và bạn có quyền sở hữu chiếc xe. Nếu tôi bỏ qua thỏa thuận giữa tôi với bạn và bán chiếc xe của mình cho người khác, bạn có thể viện dẫn luật để yêu cầu một biện pháp khắc phục – bởi vì bạn đã tin tưởng vào việc tôi giữ lời hứa. Điều này gọi là vi phạm hợp đồng, được thảo luận dưới đây.

Trong cách tiếp cận chung đối với hợp đồng, chắc chắn có sự khác biệt giữa các hệ thống luật chính. Thông luật thường được coi là thực dụng và thiên về kinh doanh, trong khi dân luật có xu hướng thiên về đạo đức. Tuy nhiên, có thể mặc định một số nguyên tắc chung được chấp nhận ở mức độ cao hơn hoặc thấp hơn bởi cả hai hệ thống pháp luật.

Các thỏa thuận xã hội không có tính ràng buộc là trường hợp vẫn thường xảy ra. Như đã mô tả ở trên, thỏa thuận gặp mặt uống Café thiếu ý định ràng buộc cần thiết về mặt pháp luật. Tòa án cũng sẽ không cho phép tôi thu hồi các chi phí phát sinh khi đi đến quán bar, nơi mà bạn đã hứa là sẽ đợi tôi. Như chúng ta thấy, thông luật cũng yêu cầu để đáp lại lời hứa thì người hứa phải “cân nhắc”. Bởi nó có thể dẫn đến những hậu quả vô lý hoặc oan uổng. Ví dụ, trong trường hợp nổi tiếng ở Anh, hai thủy thủ đã nhảy tàu. Thuyền trưởng không thể thay thế hai người họ, vì vậy, ông ta hứa với các thủy thủ còn lại sẽ trả nhiều tiền hơn nhưng lại thất hứa về việc đó. Các thủy thủ mất quyền yêu cầu tăng thêm tiền lương, vì họ bị ràng buộc bởi hợp đồng đảm nhận các nhiệm vụ phụ trên tàu. Họ đã không cân nhắc kĩ khi nghe theo lời hứa thuyền trưởng sẽ tăng lương cho họ. Các phương tiện chuyên môn khác nhau đã được các tòa án, đặc biệt ở Hoa Kỳ, nghĩ ra để tránh hình thức bất công này.

Các bên phải có năng lực giao kết hợp đồng. Mặc dù khác nhau về chi tiết, song tất cả các hệ thống pháp luật đều kiểm soát mức độ mà những thành viên của mình có thẩm quyền tham gia vào các quan hệ hợp đồng. Đặc biệt, những người trẻ tuổi (trẻ vị thành niên) hoặc những người bị tổn thương về tâm thần hoặc những khiếm khuyết khác về khả năng nhận thức thường được coi là không có khả năng ràng buộc bản thân theo hợp đồng.

Trái với quan niệm phổ biến, hợp đồng thường không cần thiết phải lập thành văn bản. Ngoài một số hợp đồng nhất định (việc bán đất là ví dụ dễ thấy nhất), không có hình thức nào được yêu cầu để ràng buộc các bên. Một thỏa thuận bằng miệng thường có mức độ ràng buộc không kém so với một văn bản, như chúng ta đã thấy, thông luật yêu cầu bằng chứng về sự cân nhắc khi đáp lại một lời hứa. Tuy nhiên, chủ nghĩa độc đoán ngày càng tăng ở chính phủ – nhân danh bảo vệ người tiêu dùng – đã tạo ra sự gia tăng về số lượng các thủ tục, bao gồm cả hợp đồng bằng văn bản hoặc thông thường hơn là hợp đồng được in ấn theo yêu cầu của pháp luật.

Một số “hợp đồng” chắc chắn bị vô hiệu nếu chúng vi phạm “chính sách công”. Bất kể khái niệm về quyền tự do hợp đồng, luật pháp không ủng hộ các thỏa thuận nhằm sử dụng luật pháp để đạt được các mục tiêu trái đạo đức hoặc trái pháp luật. Chúng có khả năng bị hủy bỏ khi tòa án tuyên vô hiệu. Nhưng các tập tục xã hội hiếm khi đứng yên; những gì bị coi là trái đạo đức cách đây một thế kỷ dường như đã chế ngự bối cảnh phóng khoáng ngày nay. Ví dụ, các tòa án Đức từng thường xuyên phủ nhận việc cho thuê mặt bằng để sử dụng làm nhà thổ.

Nhầm lẫn, xuyên tạc hoặc sự cưỡng ép có thể làm hợp đồng vô hiệu. Bởi trên thực tế, dưới các ảnh hưởng này, không tồn tại thỏa thuận thực sự.

Do đó, trong một số trường hợp nhất định, luật pháp có thể cho phép vô hiệu hợp đồng nếu có sự nhầm lẫn, xuyên tạc, bị cưỡng ép hoặc bị ảnh hưởng quá mức. Ví dụ: nếu nhầm lẫn đối tượng hợp đồng (tôi nghĩ rằng tôi đang mua một chiếc Ferrari, trên thực tế, bạn đang bán một chiếc Ford), hoặc bạn đã xuyên tạc một chiếc Ford là chiếc Ferrari, hoặc bạn ép buộc tôi phải mua, thì tôi có quyền biện hộ đối với yêu sách của bạn về việc tôi phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong thỏa thuận, và nếu tôi có thể chứng minh đã có sự xuyên tạc gian lận, ví dụ vậy, hợp đồng này có thể mất đi hiệu lực pháp lý.

Tòa án có thể tuyên bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Nếu tôi không thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, bạn có thể kiện tôi để đòi bồi thường hoặc trong một số trường hợp hạn chế, buộc tôi phải thực hiện thỏa thuận của mình. Tuy nhiên, nếu tôi có thể chứng minh do hoàn cảnh bất khả kháng dẫn đến việc không thể thực hiện hợp đồng hoặc dẫn đến mục đích của hợp đồng thất bại, tôi có thể thoát khỏi trách nhiệm pháp lý vì vi phạm hợp đồng. Giả sử, tôi đồng ý cho bạn thuê biệt thự của mình trong một tuần. Bạn đến cửa và tôi từ chối cho phép bạn vào. Tôi đã vi phạm hợp đồng của chúng ta và có thể bạn muốn đòi tiền bồi thường. Nhưng bao nhiêu? Luật pháp có nên nỗ lực trả bạn về vị trí cũ của mình trước khi bạn ký kết hợp đồng với tôi? Hay luật nên tìm cách khôi phục bạn trở lại vị trí đáng lẽ của mình nếu hợp đồng đã được thực hiện? Hay đơn giản là tôi phải trả lại tiền đặt cọc mà tôi đã lấy từ bạn để đảm bảo việc đặt phòng của bạn? Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi từ chối cho bạn vào biệt thự bởi vì cơn bão đã làm mất nguồn an toàn cung cấp điện? Liệu có sự khác biệt nếu cơn bão xảy ra cách đây một tháng so với việc chỉ mới xảy ra vào ngày hôm qua?

Những câu hỏi hóc búa này đã tạo ra rất nhiều phân tích tư pháp phức tạp trong tất cả các hệ thống luật chính. Các giải pháp đôi khi có sự khác biệt đáng kể nhưng thường là khi hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của anh ta – thiên tai là ví dụ điển hình nhất – anh ta có thể được giải phóng khỏi các nghĩa vụ theo hợp đồng.

Luật bồi thường dân sự

Các tổn hại dân sự (hoặc lỗi dân sự, như được gọi trong hệ thống pháp luật Lục địa) là những sai trái dân sự; chúng bao gồm những tổn thương đối với con người, tài sản, danh tiếng, quyền riêng tư, thậm chí là sự bình yên trong tâm trí. Giống như luật hợp đồng, luật bồi thường cung cấp cho nạn nhân (hoặc “nguyên đơn”) quyền được bồi thường cho tổn thất của mình. Tuy nhiên, không giống như hợp đồng, mục tiêu chính là giữ lời hứa, luật bồi thường bảo vệ nhiều quyền lợi. Luật pháp quy định các biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm quyền được ưu tiên bồi thường và quyền được bồi thường đối với hành vi gây tổn hại do cố ý hoặc sơ ý. Sau này, nó đã trở thành trọng tâm chính của luật bồi thường hiện đại. Tai nạn sẽ xảy ra, nhưng nếu chúng là hậu quả do sự bất cẩn của bạn, tôi có thể được khắc phục thiệt hại để bù đắp tổn thất của mình. Chẳng hạn, nếu bạn chạy xe đụng phải tôi và tôi chứng minh bạn lái xe cẩu thả, tôi có thể được bồi thường thiệt hại để trang trải chi phí điều trị tại bệnh viện, bù vào số tiền tôi mất thu nhập do không thể đi làm và cả sự đau đớn mà tôi phải chịu đựng.

Để thắng kiện, thông thường nguyên đơn phải chứng minh hành vi sai trái đã được thực hiện một cách cố ý hoặc cẩu thả. Hầu hết các vi phạm dân sự chỉ có thể bị khởi kiện khi chúng gây ra thương tích hoặc thiệt hại thực sự. Tuy nhiên, một vài vi phạm dân sự nhất định bị khởi kiện với mục đích chính là bảo vệ quyền lợi hơn là bồi thường thiệt hại, chẳng hạn như hành vi xâm phạm có thể bị khởi kiện mà không cần bằng chứng về thiệt hại. Bị đơn (còn được gọi là người có hành vi vi phạm dân sự trong các hệ thống thông luật) thường là người phải chịu trách nhiệm chính, mặc dù theo các quy tắc về trách nhiệm liên đới, một người (ví dụ: người sử dụng lao động) có thể phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm dân sự do người khác thực hiện (ví dụ: nhân viên).

Các vi phạm dân sự đôi khi cũng là vi phạm hợp đồng. Ví dụ, người tài xế xe buýt do cẩu thả đã gây thương tích cho hành khách của mình. Trong trường hợp này, ông ấy phạm cả tội cẩu thả và tội vi phạm hợp đồng vì không đưa hành khách đến nơi an toàn. Dù có thể khắc phục thiệt hại do vi phạm dân sự hoặc do vi phạm hợp đồng hoặc cả hai, song người tài xế xe buýt vẫn bị coi là đã phạm tội (ví dụ: lái xe nguy hiểm).

Mặc dù việc bảo vệ các lợi ích về tài sản và an toàn thân thể là rất đơn giản, nhưng tòa án của nhiều khu vực tài phán đã gặp khó khăn khi phải bồi thường cho những nạn nhân bị thiệt hại không phải về mặt vật chất mà chỉ thuần túy về kinh tế hoặc tình cảm. Giả sử, như đã xảy ra trong một vụ án ở Anh, các bị đơn đã sơ suất làm hỏng một dây cáp điện khi đang thực hiện công việc xây dựng gần nhà máy của nguyên đơn. Kết quả là việc sản xuất bị tổn hại nghiêm trọng và nguyên đơn bị thiệt hại về tài chính. Tổn thất vật chất (thiệt hại về vật liệu) rõ ràng là có thể khắc phục được, nhưng vì dây cáp không phải là tài sản của nguyên đơn nên tổn thất mang tính “kinh tế thuần túy”. Vậy có thể bồi thường lại được không? Thông luật, sau một số lần ngoắc ngoéo bởi các tòa án Anh, đã đưa ra câu trả lời phủ định. Ở đây, nỗi lo ngại cũng như mối quan tâm thường xuyên được các thẩm phán bày tỏ, đặc biệt ở Anh, là nếu cho phép khắc phục thì sẽ dẫn đến các vụ kiện tụng. Mặt khác, ở Pháp, không có sự phân biệt nào giữa thiệt hại vật chất và thiệt hại kinh tế.

Sự bối rối về mặt tư pháp có thể sánh với câu hỏi về sự đau khổ trong tình cảm. Với trường hợp thương tích bao gồm bệnh tâm thần do tổn thương thể chất, các tòa án tìm kiếm mức độ liên hệ gần gũi nào đó giữa nguyên đơn và nạn nhân. Tính phức tạp của cân nhắc này được minh họa một cách thảm thương qua quyết định của Hạ viện vào năm 1992. Cú va chạm trong một sân vận động thể thao đã dẫn đến cái chết của 95 người hâm mộ bóng đá và hơn 400 người bị thương. Cảnh sát thừa nhận sơ suất của mình khi để quá nhiều khán giả vào sân vận động vốn đã quá đông. Trận đấu đã được truyền hình trực tiếp. Trong sự kiện này, những hình ảnh sống động về thảm họa đã được phát đi. Một số nguyên đơn, những người biết chắc bạn bè hoặc gia đình của họ có mặt tại sân vận động, đã nhìn thấy những hình ảnh đáng lo ngại ấy. Hai trong số các nguyên đơn là khán giả dưới sân chứ không phải trên khán đài, nơi thảm họa xảy ra; các nguyên đơn khác biết về thảm họa thông qua các chương trình phát thanh hoặc truyền hình. Tất cả các nguyên đơn đã mất đi hoặc lo sợ có thể đã mất đi một người thân hoặc bạn bè trong thảm họa. Họ đã thất bại trong việc yêu cầu bồi thường đau khổ tinh thần, bởi họ – những người không bị đe dọa trực tiếp bởi tai nạn mà chỉ biết về tai nạn thông qua thị giác hoặc thính giác – không đáp ứng một hoặc các cơ chế kiểm soát khác được luật sử dụng khi các nguyên đơn yêu cầu bồi thường tổn thương tâm thần. Các yếu tố hạn chế này là:

1. Giữa nguyên đơn và người bị hại phải có sự ràng buộc chặt chẽ về tình cảm và sự yêu mến.

2. Nguyên đơn phải có mặt tại vụ tai nạn hoặc hậu quả tức thời của vụ tai nạn.

3. Tổn thương tâm thần gây ra phải xuất phát từ việc nguyên đơn nhận thức trực tiếp về vụ tai nạn hoặc hậu quả tức thời của vụ tai nạn, chứ không phải được nghe ai khác kể lại.

Yêu cầu về “sự liên hệ gần gũi” cũng như các bài kiểm tra khác đã nhận lại sự chỉ trích đáng kể và lời kêu gọi cải cách luật pháp ở một số khu vực tài phán. Các vấn đề nảy sinh trong những trường hợp mà thương tích không phải là nỗi đau tinh thần được công nhận, và trong những trường hợp mà thương tích là nỗi đau tinh thần bao gồm sự đau buồn và sự đau khổ thường xảy ra khi mất mát người thân hoặc người thân bị tổn hại.

Luật bồi thường dân sự không chỉ nỗ lực nhằm bồi thường cho nạn nhân mà còn tìm cách ngăn chặn những người có hành vi có thể gây thương tích cho người khác. Hơn nữa, nó được cho là để chuyển giao” hoặc “phân bổ” những tổn thất phát sinh trong trường hợp gây ra thương tích do cẩu thả. Nói đơn giản, bạn có lỗi ở đâu trong việc gây ra thương tích cho tôi thì luật sẽ chuyển phần thiệt hại ở đó cho bạn. Tại sao tôi phải gánh chịu tổn thất mà bạn đã sơ suất gây ra? Ngay lập tức, bạn sẽ thấy câu hỏi tưởng chừng dễ hiểu này lại ẩn giấu một loạt các vấn đề khó khăn về bản chất của sự cẩu thả: “lỗi” là gì, điều gì cấu thành “nguyên nhân”, v.v. Trong một thế giới hiện đại bị chi phối bởi bảo hiểm, vấn đề có xu hướng thay đổi từ đổ lỗi chuyển sang gánh nặng: thay vì hỏi “ai là người có lỗi?”, Câu hỏi trở thành tốt nhất là ai chịu chi phí?” Và câu trả lời thường là công ty bảo hiểm, với những người có hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc.

Luật bồi thường dân sự theo thông luật thực sự phong phú về sai phạm, bao gồm xâm phạm đất đai, xâm phạm con người (đe dọa và hành hung), quấy rối, phỉ báng, vi phạm nghĩa vụ theo luật định và trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc. Nhưng, như đã đề cập, trên thực tế, chúng bị lấn át bởi sự tổn hại do tính cẩu thả vốn dựa trên nguyên lý lỗi. Nguyên đơn phải chứng minh rằng bị đơn nợ mình nghĩa vụ chăm sóc vì đã vi phạm tiêu chuẩn cách sống “biết chừng mực, do đó mà gây ra thương tích hoặc thiệt hại cho nguyên đơn.

Mỗi yếu tố trong số ba yếu tố này đòi hỏi sự phác thảo tỉ mỉ ngắn gọn. Một trong những tuyên bố tư pháp nổi tiếng nhất ở tất cả các thông luật đã gói gọn sinh động về nhiệm vụ chăm sóc. Với trường hợp mang tính bước ngoặt Donoghue kiện Stevenson, bà Donoghue đã phàn nàn việc tìm thấy một con ốc sên trong chai bia gừng, song phán quyết này không mấy rõ ràng. Sự thật chính xác của vụ án chưa bao giờ được xác định chắc chắn, nhưng có vẻ bà Donoghue đã đi cùng bạn của mình đến một quán cà phê ở thị trấn Paisley, Scotland. Bạn của bà ấy gọi đồ uống. Chủ quán cà phê đã rót chai bia gừng vào ly đựng kem. Bà Donoghue đã uống cạn một ít và bạn của bà nhấc chai lên để rót phần bia gừng còn lại vào ly. Một con ốc sên đã bị phân hủy được cho là trôi ra khỏi chai bia rơi vào trong ly. Bà Donoghue sau đó kêu đau dạ dày và bác sĩ chẩn đoán bà bị viêm dạ dày – ruột. Bà cũng tuyên bố mình bị suy sụp tinh thần do hậu quả của vụ việc. Sau đó, luật pháp không cho phép bà kiện chủ quán cà phê. Tuy nhiên, Thượng Nghị viện (của Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland) cho rằng ở vị trí nguyên đơn của bà Donoghue phải do nhà sản xuất như Stevenson, người đã sản xuất bia gừng chịu trách nhiệm chăm sóc. Dựa trên lời huấn thị trong Kinh thánh, một người có bổn phận yêu thương người láng giềng của mình, Lord Atkin đã có tuyên bố nổi tiếng:

Quy tắc bạn phải yêu thương người láng giềng trở thành luật bạn không được làm bị thương người láng giềng của mình; và câu hỏi của luật sư: Ai là láng giềng của tôi? đã nhận lại câu trả lời hạn chế. Bạn phải chú ý để tránh những hành động hoặc thiếu sót mà có thể thấy trước một cách hợp lý là sẽ gây ra thương tích cho người láng giềng của bạn. Vậy thì theo luật, ai là láng giềng của tôi? Câu trả lời dường như là – những người bị ảnh hưởng chặt chẽ và trực tiếp bởi hành động của tôi đến mức họ phải suy ngẫm việc bị ảnh hưởng như vậy là do có vấn đề trong hành vi hoặc thiếu sót ở tôi.

Nói cách khác, bạn có nghĩa vụ đối với những người mà bạn thấy trước là có thể bị tổn hại do bởi hành vi của mình.

Do đó, chú ý là một tiêu chuẩn khách quan: bạn được đánh giá bằng cách tham khảo tiêu chuẩn người biết chừng mực. Chẳng hạn, một tòa án ở Anh cho rằng tiêu chuẩn về sự chú ý được mong đợi ở người học lái xe giống như tiêu chuẩn về sự chú ý ở bất kỳ người điều khiển phương tiện cơ giới nào khác. Tóm lại, trên thực tế, bị đơn phải gây ra thiệt hại cho nguyên đơn. Câu hỏi về nhân quả áp dụng vào suy nghĩ của nhiều thẩm phán thông luật; các khái niệm như “mức độ thiệt hại cách biệt”“nguyên nhân gần nhất” dường như thường xuyên che khuất quyết định chính sách cuối cùng của tòa án về những gì tòa coi là công bằng hoặc vì lợi ích tốt nhất cho xã hội.

Người biết chừng mực – người được giả định chống lại hành vi của bị đơn – thường được mô tả là “người trên xe buýt hai tầng Clapham” (the Clapham omnibus), mặc dù trong một cuộc kiểm tra, một trong những sinh viên của tôi thích cách nói “người trên xe buýt hai tầng cũ rích” (the clapped-out omnibus) hơn.

Người biết chừng mực

[Anh ta] không có bất kỳ điểm yếu nào của con người, không có thói vô đạo đức, không có thành kiến, sự trì hoãn, bản chất xấu, tham lam và thiếu suy nghĩ, cẩn trọng về sự an toàn của chính mình cũng như sự an toàn đối với người khác, điều này thật tuyệt vời nhưng kẻ có tính cách ghê tởm lại đứng như một tượng đài trong tòa án công lý của chúng ta, đầy tự mãn lôi kéo những người đồng hội đồng thuyền khác sắp đặt cuộc sống của họ noi gương theo nó.

A. P. Herbert, Uncommon Law (Methuen, 1969), p. 4

Cách tiếp cận tương tự được thể hiện rõ trong trường hợp không kém nổi tiếng của MacPherson kiện Buick Motor Co., trong đó Justice Cardozo cho rằng nếu một nhà sản xuất sơ suất sản xuất một chiếc xe bị lỗi khiến người mua chiếc xe từ đại lý bị thương thì nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm với người mua mặc dù không có giao ước giữa họ và người bị thương.

Nguyên đơn trong một hành động sơ suất được yêu cầu phải chứng minh hành vi của bị đơn đã thực sự gây ra thương tích hoặc thiệt hại cho mình. Tuy nhiên, thường có trường hợp mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả quá xa vời. Câu hỏi này rất phức tạp và đã tạo ra một khối lượng lớn các án lệ, đặc biệt là ở Anh. Không phải lúc nào cũng rõ ràng liệu bị đơn có phải thấy trước một cách hợp lý loại thiệt hại do sơ suất của mình gây ra hay không? Cũng không chắc chắn bị đơn sẽ phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại trên diện rộng nhiều hơn hay thiệt hại xảy ra theo cách không điển hình. Nhìn chung, các tòa án có xu hướng quyết định những trường hợp khó xử này trên cơ sở chính sách.

Công thức sơ suất của Learned Hand

Năm 1947, Thẩm phán Learned Hand của Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ giải thích lời giải đại số sau đây cho câu hỏi bị đơn cần phải đi bao xa để tránh tai nạn:

B < p × L

B = gánh nặng của các biện pháp phòng ngừa cần thiết để tránh tai nạn.

p = xác suất xảy ra tai nạn trừ khi không thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

L = độ lớn của tổn thất nếu tai nạn xảy ra.

Có sơ suất khi gánh nặng của tác nhân (B) nhỏ hơn xác suất tổn hại (p), nhân với mức độ tổn thất (L). Nói cách khác, nếu chi phí của các biện pháp phòng ngừa thấp hơn chi phí của vụ tai nạn thì bị đơn đã sơ suất.

Đối với khiếu nại của nguyên đơn về việc bị đơn đã sơ suất gây ra tổn thất cho mình, bị đơn có thể đưa ra một số biện pháp bào chữa, bao gồm cả việc nguyên đơn tự nguyện chấp nhận rủi ro khi đã đi nhờ xe của một người tài xế say rượu nghiêm trọng. Hoặc bị đơn có thể lập luận nguyên đơn đã sơ suất và do đó, đã góp phần gây ra thương tích cho chính mình khi không nhận thấy người tài xế đang say rượu sẽ lái xe một cách nguy hiểm.

Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt có thể quy định bị đơn phải chịu trách nhiệm bất kể người đó có lỗi hay không. Điều này được gọi là “trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt”. Việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng hoặc an ninh chống lại nguyên tắc lỗi, đặc biệt là khi bị đơn tham gia vào một hoạt động vốn nguy hiểm như sử dụng chất nổ. Trách nhiệm pháp lý thường được coi là cái giá phải trả để đổi lại lợi nhuận thu được từ các tập đoàn lớn tham gia vào các hoạt động có khả năng gây hại.

Bộ luật Dân sự Pháp khá sâu rộng về mặt này. Nó áp đặt trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt đối với những thứ “thuộc quyền kiểm soát của một bên”. Một “vật” bao hàm bất kỳ vật cụ thể nào, dù cho là khí, chất lỏng, dây cáp điện hay vật liệu phóng xạ. Phương tiện cơ giới được gọi là các vật thể. Luật pháp Ý quy định người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt, trừ khi anh ta đã làm mọi cách để tránh tai nạn. Luật pháp Đức quy định trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt đối với người điều khiển phương tiện gây ra thương tích cơ thể hoặc thiệt hại tài sản, cũng như đối với các công ty đường sắt, khí đốt và điện lực. Luật Anh – Mỹ cho thấy khái niệm trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt ít mang tính đồng bộ hơn, mặc dù theo cái gọi là “quy tắc trong vụ Rylands kiện Fletcher”, một bị đơn mang đến vùng đất của mình nguồn nguy hiểm sẽ phải chịu trách nhiệm nghiêm ngặt nếu nguồn nguy hiểm đó “thoát ra và gây ra thiệt hại. Quy tắc này đã được áp dụng trong số các nguồn nguy hiểm khác như đối với lửa, khí đốt, nước, hóa chất, khói, điện và chất cháy nổ. Trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt cũng có thể phát sinh theo luật đối với những tổn hại do động vật gây ra. Người sử dụng lao động cũng có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt đối với các hành vi của nhân viên trong quá trình nhân viên làm việc của họ (chịu trách nhiệm thay cho người khác”).

Khó khăn trong việc chứng minh sự cẩu thả của các nhà sản xuất đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, một hình thức trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt được gọi là “trách nhiệm đối với sản phẩm”. Người tiêu dùng hiếm khi có thể kiểm tra xem chiếc xe mình mua có bị lỗi hay không. Do đó, luật quy định rằng nếu một sản phẩm bị lỗi tại thời điểm bị đơn đưa nó vào lưu thông, thì nguyên đơn không cần phải chứng minh sự cẩu thả.

Trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm: “Trường hợp cà phê McDonald’s”

Phán quyết này thường xuyên bị chế giễu như một ví dụ về việc kiện tụng phù phiếm làm mất đi quy định của luật về tính cẩu thả. Mặt khác, các sự kiện được phép đề xuất.

Một người phụ nữ 79 tuổi, Stella Liebeck, gọi một tách cà phê từ nhà hàng McDonald’s trong khi đi xe ngang qua”. Bà ấy đang ở trên ghế hành khách. Cháu trai của bà đã đỗ xe để bà có thể thêm kem và đường vào cà phê của mình. Bà đặt tách cà phê giữa hai đầu gối và bật nắp về phía mình để mở. Trong quá trình này, bà đã làm đổ toàn bộ cốc cà phê lên đùi khiến mình bị bỏng cấp độ 3, phải ghép da và điều trị theo dõi trong suốt 2 năm.

Bà đã kiện McDonald’s vì sự cẩu thả, tuyên bố họ đã bán cà phê “nguy hiểm một cách phi lý”“được sản xuất không đúng quy trình”. Bà đưa ra bằng chứng McDonald's yêu cầu các nhà hàng của mình phục vụ cà phê ở nhiệt độ 82 – 88 độ C (nhiệt độ có thể gây bỏng cấp độ 3 trong vòng 2 đến 7 giây) và lập luận nhiệt độ tối đa mà cà phê nên được phục vụ là 60 độ C. Cà phê rất nóng của McDonald’s được khẳng định là có thể gây bỏng cấp độ 3 tới mức cần ghép da trong vòng 12 đến 15 giây. McDonald’s lập luận họ pha cà phê rất nóng vì trừ hao nhiệt độ giảm xuống trong khi mang cà phê từ chỗ của mình đến cửa sổ xe cho khách, bởi vì khách hàng thường muốn vừa lái xe vừa uống cà phê; nhiệt độ cao sẽ đảm bảo cà phê vẫn còn nóng.

Bằng chứng chứng minh từ năm 1982 đến năm 1992, công ty đã nhận được hơn 700 đơn khiếu nại của khách hàng bị bỏng do cà phê nóng. Họ đã giải quyết các khiếu nại phát sinh từ chấn thương bỏng với số tiền hơn 500.000 USD, hay nói cách khác, cứ mỗi 24 triệu tách cà phê đã được mua thì có một đơn khiếu nại.

Bồi thẩm đoàn nhận định McDonald’s phải chịu trách nhiệm 80% cho vụ việc và bà Liebeck phải chịu 20% trách nhiệm. Ly cà phê có thể hiện cảnh báo nhưng bồi thẩm đoàn phán quyết cảnh báo không tương xứng. McDonald’s đã bồi thường thiệt hại cho bà Liebeck là 200.000 USD, sau đó đã được giảm xuống 20% còn 160.000 USD. Ngoài ra, bồi thẩm đoàn đã trao tặng bà 2,7 triệu USD tiền nộp phạt của McDonald’s (để trừng phạt McDonald’s). Số tiền này sau đó được thẩm phán giảm xuống còn 480.000 USD. Do đó, bà Liebeck đã nhận được tổng cộng 640.000 USD. Phán quyết đã bị cả hai bên kháng cáo, nhưng vụ việc cuối cùng đã được ra tòa giải quyết với số tiền không được tiết lộ dưới 600.000 USD.

Cách đây không lâu, phần lớn người Mỹ, một diễn biến nổi lên được gọi là “những tổn hại mang tính đại chúng”. Đây là những vụ kiện do số lượng lớn các nguyên đơn khởi xướng (“các vụ kiện tập thể”) liên quan đến một sản phẩm duy nhất. Chúng bao gồm các khiếu nại về trách nhiệm đối với sản phẩm, chẳng hạn như các công ty thuốc lá, đối với bệnh ung thư phổi do hút thuốc, chấn thương do cấy ghép ngực và thảm họa “nhân tạo quy mô lớn, như tai nạn máy bay và vụ nổ tại các nhà máy hóa chất.

Chi phí, sự trì hoãn và tính bất công của nguyên tắc lỗi đã tạo ra sự bất mãn sâu sắc đối với hệ thống bồi thường thiệt hại cho nạn nhân gặp tai nạn. Điều này đã trở nên phổ biến và lan rộng đến mức chủ nghĩa hoài nghi chào đón những nỗ lực nhằm làm giảm nhanh chóng số lượng những người cố gắng duy trì nguyên tắc lỗi. Luật sư là các thành viên duy nhất của xã hội thu lợi từ hệ thống khi nó được tính phí. Một số khu vực pháp lý (đặc biệt là New Zealand và Quebec) đã giới thiệu các hệ thống bảo hiểm do không có lỗi toàn diện, theo đó, luật bồi thường dân sự được bãi bỏ đối với thương tích cá nhân do tai nạn gây ra. Nạn nhân của các vụ tai nạn nhận bồi thường từ các quỹ đặc biệt được tạo ra với mục đích này. Hệ quả của sự hào phóng đó là câu hỏi mà những người phản đối đặt ra đối với việc ngăn chặn hệ thống bồi thường dựa trên nguyên tắc lỗi, mặc dù có sự thừa nhận rộng rãi, đặc biệt trong trường hợp tai nạn giao thông, các chính sách bảo hiểm bắt buộc là hồi chuông báo tử của luật bồi thường dân sự.

Ngoài những sai phạm do cẩu thả, luật pháp còn công nhận một số hành vi gây tổn hại do cố ý hoặc phạm tội nhẹ. Trong đó có sai phạm dân sự về tội phỉ báng. Định nghĩa cổ điển (đúng hơn về mặt chuyên môn) của thông luật về tội phỉ báng là hành vi sai phạm bao gồm công bố một tuyên bố sai về nguyên đơn, song có xu hướng hạ thấp sự quý mến mà họ nhận được từ các thành viên có tư duy đúng đắn của cộng đồng nói chung hoặc khiến họ bị xa lánh hoặc bị né tránh, hoặc khiến họ trở nên bị thù ghét, bị chế giễu hoặc bị khinh thường, hoặc có xu hướng làm mất uy tín của họ trong giao dịch hoặc nghề nghiệp của chính mình.

Bài kiểm tra là yếu tố mang tính khách quan; nếu nói trên thực tế bị đơn không có ý định bôi nhọ nguyên đơn thì sự xem xét đó không thích đáng. Cũng không thể nói bị đơn không hề biết việc mình đưa ra một tuyên bố tưởng chừng vô hại nhưng nó lại là phỉ báng hoặc không có bất cứ ai đọc và tin tuyên bố đó là thật. Bị đơn có thể phải chịu trách nhiệm khi lặp lại các tuyên bố phỉ báng hoặc có ý định lặp lại như vậy, nhưng theo nguyên tắc chung, bị đơn không chịu trách nhiệm về việc lặp lại trái phép các tuyên bố phỉ báng trừ khi họ là người có nghĩa vụ phải lặp lại nó. Ví dụ, vẫn thường xảy ra việc lặp lại các tuyên bố phỉ báng trong trường hợp của một cuốn sách, một số ấn phẩm: bắt đầu từ tác giả rồi đến nhà xuất bản lặp lại tuyên bố đó; từ tác giả và nhà xuất bản rồi đến nhà in lặp lại tuyên bố đó; từ tác giả, nhà xuất bản và nhà in rồi đến nhà phân phối lặp lại tuyên bố đó; cứ như thế. Mỗi lần lặp lại thì ấn phẩm mới đấy sẽ làm phát sinh một quá trình hành động mới. Tuy nhiên, luật pháp không phân biệt giữa những người chỉ là nhà phân phối, mặt khác, cũng không phân biệt giữa những người chỉ là nhà phân phối với những người tham gia tích cực vào quá trình sản xuất tác phẩm. Các câu hỏi tương tự có thể nảy sinh liên quan đến việc công bố phỉ báng trên Internet.

Có bốn sự biện hộ chính đối với hành động phỉ báng. Đầu tiên là biện hộ bằng lời bào chữa (hay “sự thật”). Thừa nhận tầm quan trọng của quyền tự do ngôn luận, luật quy định đó là câu trả lời đầy đủ cho hành động phỉ báng đối với bị đơn nhằm chứng minh tuyên bố mà anh ta công bố về cơ bản là đúng sự thật. Thứ hai, biện hộ về đặc quyền tuyệt đối sẽ bảo hộ các tuyên bố phỉ báng khi chúng được đưa ra trong quá trình lập pháp, tư pháp và các thủ tục chính thức khác. Thứ ba, biện hộ về đặc quyền đủ điều kiện sẽ đạt được trong các trường hợp bị đơn có nghĩa vụ (pháp lý, xã hội hoặc đạo đức) phải tuyên bố với người có lợi ích hoặc nghĩa vụ tương ứng thì mới được nhận đặc quyền đó, tức là nhà xuất bản và những người có lợi ích chung về dữ liệu liên quan khi việc xuất bản được thực hiện. Sự biện hộ mở rộng đến các báo cáo công bằng và chính xác về các thủ tục lập pháp và tư pháp. Thứ tư, có sự biện hộ từ các bình luận công bằng. Trên thực tế, đây là sự biện hộ có xu hướng quan trọng nhất. Sự biện hộ này bảo vệ việc bày tỏ ý kiến ​​trung thực về các vấn đề được công chúng quan tâm và đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận – một thực tế đã được tòa án công nhận. Bình luận phải là về một vấn đề được công chúng quan tâm. Các vấn đề được công chúng quan tâm bao gồm hành vi công khai của những người nắm giữ hoặc mưu cầu một chức vụ công hoặc vị trí được công chúng tín nhiệm, quản lý tư pháp, các vấn đề chính trị và nhà nước, quản lý các tổ chức công, tác phẩm nghệ thuật, biểu diễn công cộng, và bất cứ điều gì thu hút bình luận hoặc thách thức sự chú ý của công chúng. Nhưng tuyên bố phải là một trong những ý kiến chủ quan ​​chứ không phải nêu lên một thực tế. Đây là sự phân biệt dễ rút ra trên lý thuyết hơn là trong thực tế. Nó phải “công bằng”, tức là phải dựa trên các dữ kiện và được hỗ trợ bởi những dữ kiện đó; phải có cơ sở thực tế đủ để đảm bảo bình luận được đưa ra. Các dữ kiện mà bình luận dựa vào phải là sự thật. Nếu chúng là sự thật và bị đơn đang trung thực bày tỏ ý kiến ​​chân chính của mình về chủ đề mà công chúng quan tâm thì việc một người biết chừng mực có tin ý kiến ​​đó hay không cũng không thành vấn đề.

Nguyên đơn có thể đánh bại sự biện hộ bằng cách chứng minh bị đơn đã hành động ác ý. Đó là vấn đề đối với nguyên đơn để chứng minh có sự ác ý. Ác ý đánh bại cũng là sự biện hộ về đặc quyền đủ điều kiện. Đối với bình luận công bằng, ác ý biểu thị bất kỳ động cơ không chính đáng nào có thể khiến bị đơn đưa ra bình luận của mình. Do đó, theo nghĩa này, bình luận của bị đơn không phải là sự thể hiện trung thực quan điểm của anh ta. Theo nguyên tắc chung, bài kiểm tra được gọi là “Bị đơn có tin tuyên bố là đúng sự thật không?”

Thay vì công nhận một hình thức phỉ báng riêng biệt, hệ thống luật dân sự bảo vệ danh tiếng dưới sự bảo trợ nhân quyền. Ở một số khía cạnh, cách tiếp cận ở Đức, Pháp và các nước châu Âu khác nghiêm ngặt hơn thông luật. Ví dụ, các lời biện hộ như bình luận công bằng và bào chữa thường không có sẵn. Tuy nhiên, các quy định về quyền tự do ngôn luận của Công ước Châu Âu về Nhân quyền đã làm giảm bớt sự hà khắc của luật pháp. Hầu hết các quốc gia châu Âu bảo vệ nguyên đơn trước sự “lăng mạ”, một phạm vi trách nhiệm pháp lý vô hạn có khả năng bị Tòa án Nhân quyền châu Âu chỉ trích. Mặt khác, trong khi các ban bố bồi thường thiệt hại tại các tòa án thông luật có xu hướng cao (đôi khi là đặc biệt cao như vậy), thì các khoản tiền phạt do các tòa án châu Âu đưa ra lại tương đối nhỏ.

Luật hình sự

Tội ác có sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được – và không chỉ đối với tội phạm. Nó là văn hóa đại chúng. Hãy nghĩ đến nhiều bộ phim – chủ yếu là của Mỹ – như Bố già, Taxi Driver, Pulp Fiction, Scarface, Reservoir Dogs, và vô số phim khác, hoặc nhiều bộ phim truyền hình nổi tiếng miêu tả các khía cạnh khác nhau của tội phạm và cách phát hiện, bao gồm Law and Order, NYPD Blue, Hill Street Blues, The Sopranos, chỉ có một vài cái tên ở đây. Dường như chúng ta say sưa quan sát quá trình phạm tội đang diễn ra.

Thông thường, luật hình sự trừng phạt các hình thức nghiêm trọng đối với hành vi chống đối xã hội: giết người, trộm cắp, hiếp dâm, tống tiền, cướp, hành hung và đe dọa hành hung. Tuy nhiên, các chính phủ triển khai luật để hình sự hóa một loạt các hành vi sai trái nhỏ liên quan đến sức khỏe và an toàn. Những “vi phạm pháp luật” này chiếm một tỷ lệ lớn trong luật hình sự hiện đại. Cũng như luật bồi thường dân sự, khái niệm lỗi là trọng tâm của luật hình sự. Nói khái quát, hầu hết các quốc gia đều cấm hành vi gây mất an ninh, gây xúc phạm và tổn hại đến hoạt động hiệu quả của chính phủ, nền kinh tế hoặc xã hội nói chung.

Hầu như mọi hệ thống luật hình sự đều yêu cầu bằng chứng về lỗi – cố ý hoặc sơ suất – để kết tội một người phạm tội. Ví dụ, Bộ luật Hình sự Mẫu của Hoa Kỳ định nghĩa tội phạm là “hành vi gây ra hoặc đe dọa gây tổn hại đáng kể đến lợi ích cá nhân hoặc công cộng một cách vô cớ và không thể chấp nhận được”. Do đó trách nhiệm hình sự có ba yếu tố cấu thành cơ bản: hành vi, không có sự biện hộ và không có nguyên cớ. Để cấu thành tội phạm, “hành vi” phải gây ra hoặc đe dọa tổn hại đáng kể đến lợi ích cá nhân hoặc công cộng. Do đó, nói tóm lại, trách nhiệm hình sự đòi hỏi một người phải thực hiện hành vi gây tổn hại hoặc đe dọa đến lợi ích cá nhân hoặc lợi ích công cộng mà không có sự biện hộ và không có nguyên cớ.

Tiêu chí “gây tổn hại” sẽ khác nhau tùy theo các giá trị xã hội và chính trị của mỗi xã hội, nhưng tất cả đều thống nhất rằng hành vi làm phương hại đến an ninh của cộng đồng hoặc gây tổn hại đến thể chất hoặc phúc lợi của các thành viên sẽ cấu thành “tổn hại”.

Trách nhiệm hình sự thường đòi hỏi sự hiện diện của hành vi có tội (“actus reus”) cũng như một ý định phạm tội (“mens rea”). Nhưng những điều kiện tiên quyết này không buộc tội bị cáo một cách thẳng thừng, vì mặt khác, anh ta có thể đưa ra một trong số các biện pháp biện hộ để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Giả sử, tôi bị một tên cướp cầm dao tấn công, và trong lúc cuộc ẩu đả xảy ra, tôi đã giết kẻ tấn công mình. Với điều kiện tôi sử dụng “vũ lực hợp lý” để tự vệ, tôi có quyền được tha bổng hoàn toàn. Tuy nhiên, người bào chữa khó có thể bào chữa cho tôi nếu tôi giết người để bảo vệ tài sản của mình. Các biện pháp biện hộ khác bao gồm sự cưỡng ép (ví dụ như tôi bị buộc phải dùng súng để phạm tội), sai lầm (tôi thực sự tin rằng chiếc ô tôi cầm là của tôi), không đủ năng lực (bị cáo là một đứa trẻ, quá nhỏ để hình thành ý định phạm tội ở nó), khiêu khích và tình trạng điên loạn.

Các tội truyền thống được đề cập ở trên là tội phạm ở khắp mọi nơi, mặc dù mức độ nghiêm trọng hoặc hình thức trừng phạt mà chúng thỏa mãn là khác nhau. Ngoài ra, xã hội không thể chịu đựng các cuộc tấn công nhằm vào sự tồn vong của chính mình. Do đó, tội phản quốc, khủng bố và gây rối trật tự công cộng thường bị hình sự hóa. Luật hình sự cũng không chỉ giới hạn trong những hành vi cực đoan này đối với cộng đồng; hành vi xúc phạm có thể thu hút sự chú ý của luật pháp khi có đủ sự lăng mạ hoặc phiền toái: ảnh khỏa thân nơi công cộng, tiếng ồn hoặc mùi hương quá mức và mại dâm là những ví dụ về hành vi có thể vượt quá ngưỡng. Luật hình sự có khuynh hướng được tận dụng với mục đích theo đuổi chủ nghĩa độc đoán. Ví dụ, hãy nghĩ đến luật yêu cầu thắt dây an toàn hoặc đội mũ bảo hiểm chống va chạm, hoặc luật của hầu hết các quốc gia cấm tàng trữ ma túy. Mục đích bề ngoài của những luật này là để bảo vệ các cá nhân chống lại các hành động dại dột hoặc sự mong manh của chính họ.

Thông luật yêu cầu để kết tội bị cáo, tội lỗi của anh ta phải được chứng minh “vượt quá mức nghi ngờ hợp lý”. Các vụ việc dân sự (chẳng hạn như một hành động vi phạm hợp đồng hoặc một hành động sai lầm gây bồi thường thiệt hại) giảm bớt gánh nặng đối với một trong những “xác suất cân bằng các khả năng có thể xảy ra”. Tình hình xét xử hình sự trong các hệ thống dân luật nhìn chung là giống nhau, mặc dù cái gọi là hệ thống “tòa án” được áp dụng ở Châu Âu Lục địa và các khu vực tài phán dân sự khác thường bị hiểu nhầm và các tính khác biệt của nó thường bị phóng đại.

Cũng giống như luật bồi thường dân sự, trách nhiệm pháp lý trong luật hình sự đôi khi rất nghiêm khắc, tức là có những tội bị coi là phạm phải mà không cần xem xét ý định phạm tội. Tương tự, lý do bỏ qua yếu tố lỗi này là nhằm bảo vệ phúc lợi công cộng, ví dụ, một nhà máy chịu trách nhiệm về ô nhiễm công nghiệp – mặc dù không có sơ suất ở họ.

Tất nhiên, bên công tố phải chứng minh bị cáo đã thực sự thực hiện hành vi phạm tội mà anh ta đã bị buộc tội. Giả sử, chúng ta có một cuộc chiến và tôi đã đánh vào đầu bạn bằng một dụng cụ cùn. Bạn được đưa đến bệnh viện, ở đó bạn được chữa trị bằng một loại thuốc giết chết bạn. Vậy tôi có mang tội giết người đối với bạn không? Tôi có gây ra cái chết của bạn không? Nếu không phải vì vết thương do tôi gây ra, bạn sẽ không phải vào bệnh viện mà sơ suất dùng thuốc không đúng. Nhưng có sự hồ nghi ở đây, bởi không phải bất kỳ hệ thống luật pháp nào cũng sẽ bắt tôi chịu trách nhiệm về cái chết của bạn.

Tội giết người ở hầu hết các quốc gia đều yêu cầu phải có bằng chứng về ý định giết người (“có cố ý ác ý” theo thông luật). Các hệ thống pháp luật, theo nhiều cách khác nhau, cố gắng phân loại tội phạm giết người trên cơ sở yếu tố tinh thần liên quan. Ví dụ, Hoa Kỳ và Canada có xu hướng phân biệt giữa các loại giết người khác nhau cấu thành tội giết người. Theo Bộ luật Hình sự Canada, tội giết người cấp độ một là hành vi giết người khác có chủ đích, có tính toán trước hoặc để tiến hành một tội hình sự nghiêm trọng khác như cướp tài sản. Giết người cấp độ hai là hành vi cố ý giết người khác mà không dự liệu trước (tức là giết người trong lúc nóng nảy). Thứ ba, ngộ sát là giết người khác khi không có ý định giết người. Thứ tư là tội giết trẻ sơ sinh – giết một đứa trẻ sơ sinh trong khi người mẹ vẫn đang hồi phục sau ca sinh nở.

Mặc dù trách nhiệm pháp lý đối với hành vi cố ý giết người là tương đối khó kiểm soát, nhưng cái chết do sơ suất gây ra ít phức tạp hơn và luật pháp ở các khu vực tài phán khác nhau áp dụng các giải pháp khác nhau với những gì thường được coi là tình thế khó xử. Một số yêu cầu mà bị cáo phải biết – về mặt chủ quan – hành động của anh ta có thể giết ai đó và anh ta vẫn tiến hành một cách liều lĩnh bất chấp rủi ro. Ví dụ, tôi được nhắc nhở không bao giờ chĩa vũ khí đã nạp đạn vào bất cứ ai. Tôi phớt lờ lời cảnh báo, khẩu súng trường của tôi chĩa về phía bạn và bắn rồi bạn bị giết chết. Các khu vực pháp lý khác thiếu điều kiện tiên quyết về kiến thức này, áp đặt trách nhiệm pháp lý về hành vi giết người do cẩu thả mà bị cáo có hành vi sơ suất nghiêm trọng. Song, vẫn còn những khu vực pháp lý khác cũng áp đặt trách nhiệm pháp lý về hành vi giết người do cẩu thả nhưng yêu cầu bị cáo có hành vi sơ suất bình thường.

Một trong những chức năng chính của luật hình sự là cho phép trừng phạt những người phạm tội bị kết án. Điều này có thể được chứng minh dựa trên bất kỳ lý do nào (thường mang tính cạnh tranh). Thứ nhất, hình phạt, đôi khi một cách chính xác, được cho là có tác dụng răn đe đối với cả người bị kết án và những người khác. Tuy nhiên, có rất ít tội phạm nghĩ rằng họ sẽ bị bắt; do đó, hiệu quả của việc răn đe còn nhiều nghi vấn. Thứ hai, có những người tin là thông qua hình phạt, đặc biệt là hình phạt tù, người phạm tội sẽ nhận ra lỗi lầm về con đường của mình và biết cải tạo bản thân. Nhưng thật không may, bằng chứng ủng hộ thái độ rộng lượng này rất ít ỏi. Thứ ba, mọi người lập luận mục đích thực sự của hình phạt là quả báo hay sự đào thải: khiến kẻ phạm tội phải gánh chịu tội ác của mình: “mắt đền mắt …. Một ví dụ cực đoan là luật Sharia của Hồi giáo, theo đó, hầu hết các cách giải thích, hình phạt đối với hành vi trộm cắp nghiêm trọng là cắt cụt tay hoặc chân (mặc dù đối với người vi phạm lần đầu là chỉ bị chặt một bàn tay).

Nhà nước, bằng cách quy trách nhiệm trừng trị tội phạm, làm giảm nguy cơ nạn nhân của tội ác “tự mình nắm lấy luật pháp”. Thứ tư, bằng cách nhốt một kẻ vi phạm, anh ta bị loại bỏ khỏi xã hội, do đó bảo vệ phần còn lại của xã hội chúng ta. Cuối cùng, đặc biệt là trong trường hợp vi phạm tội nhẹ, tội phạm có thể được yêu cầu sửa đổi thông qua “phục vụ cộng đồng. Hình thức trừng phạt này sau đó được coi là một hình thức “công lý phục hồi”.

Luật tài sản

Quyền sở hữu là trung tâm của tổ chức xã hội. Cách thức mà pháp luật xác định và bảo vệ độc nhất quyền này là dấu hiệu quan trọng về bản chất xã hội. Luật pháp luôn có điều gì đó để nói về chủ đề này, cho dù là trao các quyền tuyệt đối về tài sản tư nhân, công nhận các quyền tập thể hay chấp nhận một vị trí trung gian. Cụ thể, luật tài sản xác định, thứ nhất, thứ được coi là “tài sản”; thứ hai, khi một người có được sự độc quyền đối với một thứ; và thứ ba, cách thức mà luật bảo vệ quyền này.

Đối với câu hỏi đầu tiên, có một thỏa thuận chung là tài sản bao gồm đất đai, nhà ở và hàng hóa. Thông luật phân biệt giữa bất động sản (đất đai khác biệt với tài sản cá nhân hoặc động sản) và tài sản cá nhân. Hệ thống dân luật phân biệt giữa động sản và bất động sản. Động sản tương ứng với tài sản cá nhân, trong khi bất động sản tương ứng với tài sản có trên thực tế. Nhưng tài sản cũng là những gì mà luật tuyên bố: một tờ 10 USD là tờ giấy không có giá trị nội tại; luật truyền giá trị cho nó. Theo cách tương tự, luật pháp có thể tạo ra tài sản, giống như trong trường hợp sở hữu trí tuệ (bao gồm bản quyền). Với tư cách là chủ sở hữu bản quyền của cuốn sách này, tôi có sự độc quyền đối với các quyền khác nhau trong việc sao chép và tái bản nó.

Vấn đề thứ hai, ai là chủ sở hữu, thường được xác định bằng cách khám phá xem ai là người có quyền kiểm soát lâu dài nhất đối với đối tượng được đề cập. Và quyền này thông thường sẽ bao gồm cả quyền chuyển giao quyền sở hữu cho người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp đất đai, tôi có thể không biết liệu người bán có phải là chủ sở hữu hợp pháp hay không. Do đó, hầu hết các hệ thống pháp luật đều có một số hình thức đăng ký đất công cho phép người mua tương lai xác định ai là chủ sở hữu thực sự.

Vấn đề thứ ba, luật pháp có thể giải quyết cuộc tranh chấp giữa chủ sở hữu và người chiếm hữu một vật. Chủ sở hữu, như chúng ta đã thấy, là người có yêu sách lâu dài nhất đối với việc sở hữu một vật. Nhưng giả sử tôi cho bạn thuê biệt thự của mình trong vòng một năm. Bạn hiện đang sở hữu tài sản, trong khi tôi có quyền tối cao để chiếm hữu nó, một số hệ thống pháp luật ưu tiên quyền của người thuê (ít nhất là trong thời gian thuê) hơn là quyền của chủ sở hữu; song những hệ thống pháp luật khác lại ưu tiên quyền của chủ sở hữu hơn.

Một nhánh quan trọng của luật tài sản là luật tín thác, được phát triển từ sự phân chia giữa thông luật và luật công lý (hệ thống luật pháp tồn tại song song và bổ sung cho luật thành văn) ở Anh. Vào thế kỷ 14, sự bất mãn với tính cứng nhắc, tham nhũng và chủ nghĩa hình thức của thông luật đã khiến các bên thua kiện phải kiến nghị với nhà vua để buộc bên kia tuân theo các nguyên tắc đạo đức – thay vì nguyên tắc khắt khe – của luật pháp. Nhà vua chuyển những kiến nghị này đến tể tướng, quan chức hành chính chính, và đã kịp thời thông qua quyền lực tư pháp cho ra đời luật công lý. Xung đột không thể hàn gắn giữa một bên áp dụng nghiêm ngặt các nguyên tắc luật pháp và một bên áp dụng các nguyên tắc công lý và đạo đức, đã được Shakespeare hiểu rõ, ông tuyên bố trong Hồi IV Cảnh 1 của The Merchant of Venice, qua lời của nhân vật Portia:

Đặc trưng của lòng nhân từ là không gượng ép

Nó rơi xuống như cơn mưa nhẹ nhàng đến từ thiên đường

Rơi xuống mặt đất bên dưới. Lần thứ hai nó giáng phúc lành;

Nó ban phúc cho anh ta bằng cách cho đi để anh ta nhận lại

“Nó phi thường trong tất cả những điều phi thường”; lòng nhân từ trở nên như vậy

Quốc vương được tôn sùng ngồi lên ngai vàng tốt hơn quốc vương chỉ biết đội vương miện.

(The quality of mercy is not strained

It droppeth as the gentle rain from heaven

Upon the place beneath. It is twice blest;

It blesseth him that gives and him that takes.

‘Tis mightiest in the mightiest; it becomes

The thronèd monarch better than his crown.)

Trong số các khái niệm nổi bật từ quyền tài phán công bằng là thể chế ủy thác thuận tiện, là sự sắp xếp mà theo đó “người chuyển nhượng tài sản” chuyển tài sản cho một hoặc nhiều người được ủy thác, người nhận ủy thác là những người nắm giữ tài sản vì lợi ích của một hoặc nhiều người thụ hưởng, sẽ có quyền thực thi ủy thác trước tòa án.

Công bằng, bắt nguồn từ lương tâm, cũng sinh ra khối lượng lớn một số biện pháp khắc phục quan trọng, bao gồm cả lệnh khẩn cấp. Điều này cho phép một người ngăn chặn trước hành vi sai trái pháp lý. Ví dụ: nếu tôi biết rằng bạn sắp xuất bản một bài báo phỉ báng tôi, trong một số khu vực pháp lý, tôi có thể nhận được lệnh khẩn cấp để ngăn bạn làm như vậy. Một biện pháp khắc phục công bằng khác là “thực hiện hành động cụ thể”. Thông luật chỉ cho phép giải quyết thiệt hại do vi phạm hợp đồng, nhưng nguyên đơn thường tìm cách thực hiện hợp đồng hơn là bồi thường. Kể từ thế kỷ 19, luật công lý được áp dụng tại các tòa án giống như thông luật, và mặc dù sự phân chia giữa hai cơ quan pháp luật vẫn còn, luật công lý đã mất đi sứ mệnh của nó là nữ quyền nhân ái”, trái ngược với quan điểm của thông luật là “nam quyền cứng rắn”.

Ảnh 6. Cải trang thành tiến sĩ luật trẻ tuổi, nhân vật Portia của Shakespeare trong tác phẩm The Merchant of Venice đã thành công thuyết phục tòa án: nếu Shylock thực sự có quyền lấy đi một cân thịt của Antonio, theo luật, anh ta lấy đi mà không được làm đổ máu! Tính kỹ thuật pháp lý tốt đẹp này đã cứu mạng Antonio

Tòa án Công lý Dickensian

Đây là Tòa án Công lý, nơi có những ngôi nhà mục nát và những vùng đất bạc màu ở mọi quận, nơi có những kẻ điên kiệt sức trong mọi nhà thương điên và xác chết trong mọi sân nhà thờ, nơi có những nguyên cáo bị hủy hoại đi đôi giày cũ nát và vận y phục xác xơ phải vay mượn và van xin trong số những người quen biết, nơi cho người có tiền những phương tiện dồi dào làm hao mòn quyền lợi của người khác, nơi làm kiệt quệ tài chính, sự kiên nhẫn, lòng can đảm, hy vọng, đến nỗi đánh đổ cả khối óc và làm tan nát trái tim, không có nỗi một người xứng đáng trong số những người đang hành nghề, những người mà sẽ không đưa ra – những người mà không thường đưa ra – lời cảnh báo, “Hãy chịu đựng bất kỳ sai lầm nào có thể chịu đựng được, còn hơn là tìm đến đây!”

Charles Dickens, Bleak House, Chương I

Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Dù ở dạng văn bản hay không, mỗi quốc gia đều có hiến pháp quy định thành phần và chức năng của các cơ quan chính quyền, điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước. Luật hiến pháp phân tích mức độ phân bổ các chức năng của chính phủ giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp: sự “tam quyền phân lập”. Nhiều hiến pháp kết hợp dự luật về quyền hạn chế thực thi quyền lực của chính phủ bằng cách trao các quyền và tự do cá nhân cho công dân. Các quyền đó thường bao gồm quyền tự do ngôn luận, tín ngưỡng, tôn giáo, quyền hội họp hòa bình, tự do lập hội, quyền riêng tư, quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng, quyền sống, quyền kết hôn và lập gia đình, quyền tự do di chuyển, và quyền của những người bị buộc tội hoặc bị kết án tội hình sự.

Luật hành chính điều chỉnh việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của công chức. Đặc biệt, nó liên quan đến việc kiểm soát các quyền lực ở các tòa án, ở nhiều khu vực tài phán, ngày càng tham gia vào việc rà soát việc thực thi pháp luật và hành động hành chính. Điều này chủ yếu xảy ra do sự mở rộng đáng kể trong 50 năm qua về số lượng các cơ quan chính phủ điều chỉnh các mảng rộng lớn của đời sống xã hội và kinh tế của chúng ta. Nó cũng liên quan đến việc xem xét các quyết định của các cơ quan được gọi là “bán tư pháp”, như các ủy ban kỷ luật chuyên môn có ảnh hưởng đến quyền hợp pháp của các thành viên của họ. Các phán quyết của ủy ban này dễ bị “xem xét tư pháp” để xác định xem họ đã hành động hợp lý hay chưa.

Tiêu chuẩn chính xác về tính hợp lý được tòa án áp dụng khác nhau trong các khu vực tài phán thông luật khác nhau. Ví dụ: ở Hoa Kỳ, tòa án hỏi: liệu quyết định của cơ quan là chuyên quyền hay bất thường” trước khi phán quyết có nên hủy bỏ quyết định đó hay không. Bài kiểm tra của Canada là một trong những “sự vô lý về bằng sáng chế”, trong khi Tòa án Tối cao Ấn Độ áp dụng các tiêu chí về tính cân xứng và sự mong đợi hợp pháp. Luật pháp Anh áp dụng tiêu chuẩn được gọi là “sự vô lý của thứ Tư” (sau một trường hợp có tên gọi này, điều được thiết lập là nếu một quyết định “vô lý đến mức không có cơ quan hợp lý nào có thể đưa ra quyết định đó” thì nó sẽ bị gạt sang một bên).

Ở Pháp, Hội đồng bảo hiến thực hiện giám sát tư pháp độc quyền, bao gồm cả về sự tôn trọng pháp luật dù không thu hút đủ sự ủng hộ của quốc hội. Hội đồng bảo hiến có quyền – không thể bị kháng nghị – vô hiệu hóa dự luật đang tranh cãi. Các tòa án tối cao (Conseil d’état và Cour de Cassation) tìm cách giải thích luật sao cho phù hợp với Hiến pháp. Luật hành chính của Pháp công nhận một số “nguyên tắc của giá trị hiến pháp” (các nguyên tắc về giá trị hiến pháp), bao gồm phẩm giá con người mà hành pháp phải tuân thủ, ngay cả khi không có các quy định pháp luật cụ thể có hiệu lực. Hiến pháp Đức (Luật cơ bản) đảm bảo việc xem xét tư pháp như là kiểm tra đối với sự chuyên chế của đa số.

Một số quốc gia dân luật có các tòa án hành chính đặc biệt. Những khó khăn có xu hướng nảy sinh liên quan đến việc xác định một vấn đề xét xử thuộc về các tòa án hành chính đặc biệt hay thuộc về các tòa án thông thường thì sẽ đúng đắn hơn. Ví dụ, ở Pháp, một Tòa án đặc biệt chuyên xét xử tranh chấp sẽ quyết định nơi mà vấn đề nên được xét xử, trong khi ở Đức, tòa án nơi vụ việc được thụ lý lần đầu sẽ xác định xem nó có thẩm quyền xét xử hay không và có thể chuyển giao những vụ việc mà nó từ chối quyền tài phán. Ở Ý, Tòa giám đốc thẩm là cơ quan có thẩm quyền tối cao khi có phát sinh những mâu thuẫn như vậy.

Các nhánh luật khác

Luật gia đình liên quan đến hôn nhân (và các luật tương đương hiện nay), ly hôn, con cái, cấp dưỡng nuôi con, nhận con nuôi, quyền giám hộ, trách nhiệm giám hộ, mang thai hộ và bạo lực gia đình.

Công pháp quốc tế tìm cách điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Các định mức này được tạo ra bởi các hiệp ước và thỏa thuận quốc tế (chẳng hạn như Công ước Geneva), Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, bao gồm Tổ chức Lao động Quốc tế, UNESCO, Tổ chức Thương mại Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Tòa án Công lý Quốc tế (đôi khi được gọi là Tòa án Thế giới), có trụ sở tại La Haye (Hague), được thành lập vào năm 1945 theo Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia và đưa ra các ý kiến ​​tư vấn về các vấn đề pháp lý. Tòa án Hình sự Quốc tế được thành lập vào năm 2002 và cũng đặt tại La Haye. Nó xét xử các vụ truy tố những thủ phạm của tội ác diệt chủng, tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh và tội ác xâm lược. Hơn 100 quốc gia là thành viên của tòa án nhưng cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều không nằm trong số đó; Hoa Kỳ bày tỏ sự dè dặt về khả năng của tòa án trong việc tôn trọng các quyền hiến định của các bị đơn Mỹ (bao gồm cả việc xét xử bởi bồi thẩm đoàn) và viễn cảnh sự chính trị hóa tòa án – những lo ngại này dường như là viển vông và không gây khó khăn cho nhiều quốc gia đã công nhận thẩm quyền của tòa án.

Luật môi trường là sự chắp vá của các quy tắc thông luật, lập pháp, các hiệp định và công ước quốc tế mà mối quan tâm hàng đầu là bảo vệ môi trường tự nhiên chống lại sự tàn phá của con người, chẳng hạn như khí thải carbon gây ô nhiễm và có thể là sự nóng lên toàn cầu. Nó cũng tìm cách thúc đẩy sự phát triển bền vững”.

Luật doanh nghiệp đề cập đến việc “thả nổi” các tập đoàn và các tổ chức kinh doanh khác. Khái niệm “tính cách doanh nghiệp” (theo đó, một doanh nghiệp có một bản sắc riêng biệt, độc lập với các doanh nghiệp khác) có tầm quan trọng sống còn trong thế giới kinh doanh. Có nghĩa doanh nghiệp là pháp nhân có năng lực giao kết hợp đồng, khởi kiện và bị kiện. Luật doanh nghiệp cũng quy định các quyền và nhiệm vụ của giám đốc và cổ đông, và ngày càng quan tâm đến các quy tắc quản trị công ty, sáp nhập và mua lại.


Bài viết xem thêm