Luật sư

Luật sư

Các luật sư là đặc trưng không thể thiếu – kể cả không được yêu thích – của mọi hệ thống pháp luật phát triển. Họ bị phỉ báng, chế giễu và miệt thị. Sự hài hước của vô số câu chuyện cười về luật sư bắt nguồn từ việc công kích ở họ tính dễ bị mua chuộc, tính không trung thực và cả sự vô cảm. Với câu hỏi nhạo báng, “Bạn làm thế nào để biết được một luật sư đang nói dối?” Câu trả lời là: “Môi anh ta đang mấp máy”. Một người khác lại mỉa mai, Làm sao 99% luật sư gây tiếng xấu cho toàn bộ nghề nghiệp mà không có lấy một chút hổ thẹn?” Mark Twain bị đồn thổi là đã châm biếm, “Thật thú vị khi nhận thấy tội phạm tăng lên gấp bội và các luật sư cũng vậy; chỉ là tôi tự nhắc đi nhắc lại với bản thân”.

Hầu hết ở các quốc gia, nỗ lực giải thích sự ác cảm này dường như là vô ích, kể cả trên cơ sở sự bất bình chính đáng và sự hiểu lầm về nghề luật. Một sự thật chắc chắn là vì những tác nhân chính trị mà các luật sư thu hút rất ít tình cảm. Tuy nhiên, nghề luật độc lập là thành phần quan trọng của pháp quyền; nếu không có luật sư cung cấp cho công dân quyền đại diện có thẩm quyền, những lý tưởng của hệ thống pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa. Bằng việc cung cấp hỗ trợ pháp lý trong các vụ án hình sự, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận điều này. Ví dụ, hỗ trợ pháp lý là quyền được công nhận theo Điều 6 Công ước Châu Âu về Quyền con người. Các bị cáo được yêu cầu có luật sư tư vấn và nếu không có luật sư riêng của mình, một luật sư sẽ được chỉ định miễn phí cho họ.

Ảnh 15. Atticus Finch: vị luật sư anh hùng được Gregory Peck miêu tả trong phim chuyển thể từ tiểu thuyết To Kill a Mockingbird. Finch không bảo vệ thành công một bị cáo da đen bị buộc tội cưỡng hiếp một phụ nữ da trắng. Nhiều luật sư người Mỹ khẳng định nhân vật đã truyền cảm hứng cho họ đi theo nghề luật

Hình tượng anh hùng Hollywood mô tả về luật sư – được tái hiện trong loạt phim truyền hình dài tập – thường mạnh mẽ, hùng hồn theo đuổi công lý vì thân chủ của họ, song nó khác xa với cuộc sống thực tế của các luật sư. Dù là phần công việc quan trọng trong nghề nghiệp nhưng biện hộ trước tòa chỉ là một phần nhỏ. Hàng ngày, các luật sư hầu như bận rộn với việc soạn thảo (hợp đồng, ủy thác, di chúc và các tài liệu khác), tư vấn khách hàng, tiến hành đàm phán, chuyển giao tài sản và các công việc khác kém hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, ngay cả khi phần lớn luật sư chưa bao giờ đặt chân đến tòa án, bản chất của nghề luật vẫn là cuộc chiến được tiến hành thay cho thân chủ. Trong chiến dịch này, các kỹ năng bào chữa – dù bằng lời nói hay văn bản – đều là điều tối quan trọng. Thường thì luật pháp là chiến tranh và luật sư là chiến binh.

Các luật sư thông luật

Đối với nhiều người, những điều chỉnh của nghề luật ở Anh tồn tại trong các khu vực pháp lý thông luật của Khối thịnh vượng chung Anh trước đây có vẻ là kỳ lạ – sự lỗi thời kệch cỡm với bộ tóc giả, áo choàng và các hình thức diễn văn cứng nhắc. Mặc dù một số đặc điểm cổ xưa, kỳ quặc này đã bị xóa bỏ ở vài quốc gia thông luật nhưng chúng vẫn cho thấy một sự bền bỉ khác thường, đặc biệt là ở Anh. Các cuộc thăm dò ý kiến công chúng và những người đang hành nghề, chứng minh không thể đi đến kết luận. Tóc giả của nhiều luật sư và thẩm phán dường như đã được cố định vững chắc trong thời gian dài.

Những bộ tóc giả to lớn

Thưa ngài: Tóc giả pháp lý tất nhiên là sự lạc hậu. Thế nhưng, mũ của đàn ông Do Thái đội khi cầu nguyện (yarmulke), mũ tế của giám mục (mitre), mũ màu đen của giáo sĩ Thiên Chúa giáo (biretta), da gấu, mũ vuông của giáo sư và sinh viên của trường đại học Anh (mortarboard) và tất cả các hình thức khác của mũ đội đầu trịnh trọng cũng như vậy. Tôi bị công khai trên báo về phẩm chất tương xứng với bộ tóc giả trong việc đẩy mạnh sự nặc danh và che đậy tình trạng đổ nát. Tuy nhiên, tầm quan trọng thực sự của nó nằm ở vấn đề di sản. Đối với một luật sư luật gia đình như tôi, tóc giả như sợi chỉ vàng minh chứng cho tính liên tục lại được kéo dài sau quy chế vĩ đại năm 1857, sau Dr Lushington và tiến vào địa hạt tuyệt vời của luật gia đình thế kỷ 18. Đó là di sản được công nhận, dù cho tôi xuất hiện ở trước Tòa án phúc thẩm tại London hay trước Tòa án phúc thẩm Quần đảo Cayman hay trước Tòa án phúc thẩm Hồng Kông (đeo tóc giả mà ngồi dưới biểu tượng màu đỏ sặc sỡ có năm ngôi sao biểu thị chủ quyền của Trung Quốc cộng sản). Cho đến nay, theo như tôi được biết, không có bất kỳ phán quyết nào đưa ra nhằm bãi bỏ tóc giả trong các vụ khiếu kiện dân sự ở đây và tôi phản đối bất kỳ đề xuất nào làm như vậy.

Nicholas Mostyn QC, Temple, London EC4. Letters, The Spectator, 23 June 2007

Tất nhiên, nguồn gốc của nghề luật sư thông luật ngấm vào lịch sử nước Anh – và do vậy, tính logic không nhất thiết phải nằm trong số những lý lẽ biện hộ của nó. Có sự phân chia giữa hai loại luật sư chính: luật sư và cố vấn pháp luật. Luật sư (thường được gọi là “nhóm luật sư”) chiếm một thiểu số nhỏ trong nghề luật (khoảng 10% ở hầu hết các khu vực pháp lý) và dù đúng hay sai, đều được coi – đặc biệt là bản thân họ – là nhánh cao cấp của nghề. Những năm gần đây đã chứng kiến vài thay đổi khá sâu rộng, nhiều thay đổi trong số đó đã làm giảm đặc quyền của các luật sư (hay nghề luật sư”). Những cải cách này phần lớn được thúc đẩy bởi sự bất an chính trị liên quan đến chi phí dịch vụ pháp lý tăng cao, do các hoạt động hạn chế của nghề luật.

Luật sư, tối thiểu có liên hệ trực tiếp với “khách hàng không có chuyên môn” của họ. Những khách hàng này được cố vấn pháp luật “lập hồ sơ” và theo yêu cầu thông thường trong các cuộc họp (hoặc “hội nghị”) với khách hàng, luật sư phải có mặt. Tuy nhiên, có ngoại lệ đối với một số ngành nghề nhất định, bao gồm kế toán và thanh tra viên, những người có thể trao đổi với luật sư mà không cần có sự hiện diện của họ. Trong hầu hết trường hợp, giao dịch phải thực hiện thông qua cố vấn pháp luật, người chịu trách nhiệm về thanh toán phí luật sư.

Luật sư Anh được “công nhận là” luật sư bởi một trong bốn cơ sở đào tạo của Hội luật gia Anh (Inn of Court), đây là các tổ chức cổ xưa quản lý việc gia nhập nghề luật từ thế kỷ 16. Không giống như đại đa số cố vấn pháp luật, luật sư có đầy đủ quyền cử tọa, cho phép họ xuất hiện trước bất kỳ một tòa án nào. Nói chung, cố vấn pháp luật chỉ có quyền cử tọa ​​trước tòa án cấp dưới, mặc dù trong những năm gần đây, quan điểm đã thay đổi và một số cố vấn pháp luật được chứng nhận là cố vấn pháp luật biện hộ”, có thể đại diện cho khách hàng của mình với tư cách là người bào chữa tại tòa án cấp trên. Sự phân chia truyền thống đang dần bị phá vỡ. Tuy nhiên, hai sự khác biệt chủ yếu giữa hai loại luật sư vẫn giữ nguyên. Thứ nhất, thay vì khách hàng cung cấp trực tiếp, luật sư được cố vấn pháp luật cung cấp tài liệu một cách cố định, trong khi đó khách hàng sẽ trực tiếp đến gặp cố vấn pháp luật. Thứ hai, không giống như cố vấn pháp luật, luật sư hoạt động với tư cách là người hành nghề đơn lẻ và bị cấm hình thức cộng tác. Thay vào đấy, luật sư thường hình thành các văn phòng luật chia sẻ nguồn lực và chi phí. Nhưng hiện nay, luật sư có thể được tuyển dụng bởi các công ty luật, công ty hoặc các tổ chức khác với tư cách luật sư nội bộ.

Ảnh 16. Mặc dù trang phục của họ thường bị chế giễu là lập dị và lạc hậu, luật sư ở một số khu vực pháp lý thông luật vẫn sử dụng những bộ tóc giả và áo choàng mà họ đã mặc trong nhiều thế kỷ. Tính bền bỉ của truyền thống này được minh họa ở đây qua hình ảnh cố vấn cấp cao của Hồng Kông, người đã “lấy lụa”, vận áo choàng lụa và đội tóc giả trịnh trọng

Những biến đổi khác xảy ra. Ví dụ, các luật sư được phép quảng cáo dịch vụ và phí của mình – sự ô nhiễm thương mại không thể tưởng tượng được cho đến nay. Họ cũng không bị giới hạn trong việc hành nghề từ các văn phòng luật; sau lệnh ba năm, họ có thể làm việc tại nhà.

Những người trong nghề bị chia rẽ do sự công kích từ một số khu vực. Không hề vô lý khi đặt ra câu hỏi: tại sao khách hàng nên trả phí thực tế cho hai loại luật sư, ví dụ như ở Hoa Kỳ, tại sao khách hàng nên làm vậy? Trường hợp hợp nhất hai chi nhánh (như ví dụ xảy ra ở Canada, ngoại trừ Quebec) đã nhận lại một số phản hồi. Cụ thể, những người biện hộ cho quan hệ pháp lý lập luận rằng luật sư độc lập đưa ra đánh giá chuyên môn và khách quan về trường hợp của khách hàng. Ngoài ra, cố vấn pháp luật, đặc biệt là những người từ các công ty luật có quy mô nhỏ, thường thiếu trình độ chuyên môn cao, song có thể dựa vào ý kiến của giới chuyên môn về nhiều loại kỹ năng bào chữa. Điều này cho phép họ cạnh tranh với các công ty luật lớn hơn, nơi có nhiều chuyên gia.

Nghề luật hợp nhất hoạt động ở một số khu vực pháp lý thông luật. Tại Hoa Kỳ, không có sự phân biệt nào; tất cả đều là luật sư. Bất cứ ai vượt qua kỳ kiểm tra luật sư của tiểu bang đều có thể xuất hiện tại các tòa án của tiểu bang đó. Một số tòa án phúc thẩm của tiểu bang yêu cầu luật sư phải có giấy chấp thuận mới có thể bào chữa và hành nghề tại tòa án đó. Để xuất hiện trước tòa án liên bang, luật sư yêu cầu phải có quyền tham gia cụ thể vào việc kháng biện của tòa án ấy. Sự hợp nhất cũng tồn tại ở các bang Nam Úc và Tây Úc cũng như ở New Zealand.

Nguyên lý cơ bản về nhiệm vụ luật sư ở một số quốc gia thông luật (nhưng đáng ngạc nhiên, không bao gồm Hoa Kỳ) chính là “quy tắc bến taxi (cab-rank), theo đó khi được đệ trình khoản chi phí thích hợp, luật sư không có quyền từ chối hành động vì thân chủ trong lĩnh vực anh ta hành nghề, bất kể anh ta cho rằng thân chủ là người không được yêu thích hay là người phiền toái”. Giống như tài xế taxi có nghĩa vụ tiếp nhận bất kỳ một hành khách nào, luật sư phải chấp nhận bất kỳ một vụ kiện nào, trừ khi có những hoàn cảnh biện minh cho việc từ chối, chẳng hạn như lĩnh vực pháp luật nằm ngoài chuyên môn của mình hoặc nằm ngoài kinh nghiệm bản thân hoặc nơi giao phó công việc ngăn cản anh ta dành đủ thời gian cho vụ việc. Trường hợp không có quy tắc như vậy, luật sư sẽ miễn cưỡng đại diện cho những khách hàng ghê tởm, vô đạo đức hoặc ác tâm vốn bị buộc tội, chẳng hạn những tội ác kinh khủng như lạm dụng tình dục trẻ em. Tuy nhiên, trên thực tế, không có gì khác biệt với luật sư khi tìm lấy lý do không chấp nhận vụ kiện. Ngoài tình huống liên quan đến lĩnh vực luật pháp vượt quá khả năng của mình, yếu tố con người luôn hiện hữu: so với trường hợp liên quan đến vụ việc nan giải hoặc vô vọng thì dành thời gian cho vụ việc khả thi luôn dễ dàng hơn. Điều này đại diện cho tuyên bố đúng đắn về nghĩa vụ nghề nghiệp, nhấn mạnh vai trò luật sư là “vũ khí được thuê”, người gan dạ hành động đối với bất kỳ một khách hàng nào, bất kể giá trị vụ việc của khách hàng như thế nào.

Các quyền lựa chọn phong phú

Trong nghề luật, chúng ta có một nhóm những người hành nghề có uy tín và ảnh hưởng, được cho là đảm bảo các cam kết pháp luật về công lý đều thỏa mãn mọi người, song công việc sinh lợi nhất của họ tiếp tục là xử lý các vấn đề của người giàu thay vì xét xử cho người nghèo … Thế nhưng, phân tích đến cuối cùng, sức hút của nghề luật đối với các loại hình kinh doanh và tài sản là điều dễ hiểu, bởi nghề luật nói chung tập trung vào việc quản lý và bảo vệ tài sản. Do đó, chủ yếu là luật, chứ không phải bản thân các luật sư, làm nổi bật các vấn đề của tầng lớp trung lưu và thượng lưu so với phí tổn của người nghèo…

Phil Harris, Introduction to Law, 7th edn (Cambridge University Press, 2007), p. 444

Đặc điểm nổi bật của đào tạo luật sư thông luật là vai trò của một số hình thức tập sự (xem bên dưới). Thật vậy, chỉ đến cuối thế kỷ 19, các trường đại học ở Anh mới giảng dạy về mọi pháp luật. Trường đại học giáo dục về pháp lý với quy mô lớn ở Hoa Kỳ, Canada, Úc và New Zealand phải đợi đến thế kỷ 20, mặc dù vài trường đại học đã thành lập trường luật trước đó (đặc biệt là Harvard năm 1817).

Các luật sư dân luật

Các luật sư dân luật về cơ bản khác với các luật sư thông luật. Thật vậy, khái niệm về nghề luật trong các khu vực pháp lý dân luật lớn ở Châu Âu, Châu Mỹ Latinh, Nhật Bản và Scandinavia là vấn đề nan giải. Theo cách nói của cơ quan có thẩm quyền hàng đầu về chủ đề này, “Khái niệm dân gian của thông luật về “luật sư” không có sự tương đồng trong ngôn ngữ châu Âu…” Các khu vực pháp lý dân luật thừa nhận hai loại chuyên gia pháp lý: luật gia và người hành nghề luật tư nhân. Luật gia bao gồm các sinh viên tốt nghiệp ngành luật, trong khi người hành nghề luật tư nhân, có vị trí không giống như ở các nước thông luật, không đại diện cho hạt nhân của nghề luật. Thay vào đó, “các nhóm người tốt nghiệp ngành luật được ưu tiên hơn – về mặt lịch sử, số lượng và ý thức hệ. Họ bao gồm tập thể các quan tòa (thẩm phán và công tố viên) … công chức, giáo sư luật và luật sư làm việc trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.

Sinh viên ở các nước dân luật thường quyết định về tương lai của mình sau khi tốt nghiệp. Và do tính biến động trong nghề luật bị hạn chế nên ở nhiều khu vực pháp lý, lựa chọn này có khả năng xác định. Họ có thể lựa chọn theo đuổi sự nghiệp thẩm phán, công tố viên, luật sư chính phủ, người biện hộ hoặc công chứng viên. Do vậy, hành nghề luật tư nhân thường được phân chia giữa người biện hộ và công chứng viên. Người biện hộ tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và đại diện cho khách hàng trước tòa. Sau khi tốt nghiệp trường luật, những người biện hộ thường làm thực tập sinh học việc với các luật sư có kinh nghiệm trong vài năm, sau đó có xu hướng hành nghề với tư cách người hành nghề đơn lẻ hoặc trong các công ty nhỏ.

Để trở thành một công chứng viên thường phải vượt qua kỳ kiểm tra cấp nhà nước. Công chứng viên soạn thảo các tài liệu pháp lý như di chúc và hợp đồng, chứng thực các tài liệu đó theo thủ tục tố tụng và lưu giữ hồ sơ hoặc cung cấp bản sao của các tài liệu đã chứng thực. Luật sư của chính phủ phục vụ với tư cách là công tố viên hoặc luật sư cho các cơ quan chính phủ. Công tố viên công thực hiện cả hai chức năng. Trong các vụ án hình sự, công tố viên công chuẩn bị cho trường hợp của chính phủ; trong khi ở một số vụ án dân sự, lại đại diện cho lợi ích cộng đồng.

Có sự khác biệt quan trọng giữa hai hệ thống về tổ chức giáo dục pháp luật. Nói rộng ra, ở hầu hết các khu vực pháp lý thông luật (với ngoại lệ dễ thấy là Anh – và Hồng Kông), luật là văn bằng sau đại học hoặc như ở Úc, New Zealand và Canada, có thể được kết hợp với bằng đại học ở chuyên ngành khác. Mặt khác, ở khu vực dân luật, luật là khóa học ở bậc đại học. Trong khi chương trình giảng dạy ở thông luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nghề luật, nhà nước trong các khu vực pháp lý dân luật lại thực hiện chức năng chi phối về mặt này. Nghề luật ở hầu hết các quốc gia thông luật quản lý các kỳ thi đầu vào, trong khi đó, với vai trò như người gác cổng của các trường đại học, các kỳ kiểm tra thêm, nói chung là thừa và chỉ cần đáp ứng bằng luật.

Với người hành nghề luật tư nhân, chức năng gác cổng ở các quốc gia thông luật có xu hướng diễn ra trong thời gian học việc. Ví dụ, mong muốn làm luật sư tranh tụng thì phải vượt qua kỳ thi Luật để gia nhập Tòa. Để thực tập tại Tòa, anh ta phải phục vụ hai kỳ sáu tháng với tư cách học viên ở văn phòng Tòa, tham dự các cuộc hội thảo với cố vấn pháp luật do học trò của ông ấy (một luật sư có cấp bậc cao hơn) tiến hành, và ngồi tại tòa, hỗ trợ chuẩn bị các vụ án, soạn thảo ý kiến,... Tư cách học viên thường không được trả lương, dù bây giờ, thu nhập của học viên được tài trợ nhằm đảm bảo ở mức cố định. Trong kỳ sáu tháng thứ hai với tư cách học viên, luật sư tranh tụng có thể tham gia thực hành hạn chế và được hướng dẫn ở phạm vi quyền của mình. Ngoại trừ luật sư tranh tụng, luật sư hành nghề tư nhân còn hoạt động với tư cách là thành viên của một công ty có quy mô đa dạng, từ hình thức luật sư đơn lẻ đến các công ty lớn gồm hàng trăm luật sư.

Quy tắc nghề nghiệp

Các đoàn luật sư, Hội đồng luật sư và Hiệp hội luật sư là một trong số rất nhiều tổ chức giám sát việc tuyển sinh, cấp phép, giáo dục và quy định của các luật sư thông luật. Dân luật ưa thích thuật ngữ “người biện hộ” (mô tả chính xác hơn chức năng chính của họ và các tổ chức đối tác của họ được gọi là Phòng, Ban, Khoa hoặc Trường Cao đẳng của Người biện hộ). Mặc dù thứ bậc khác nhau nhưng chúng thường có chung mối quan tâm là hạn chế số lượng luật sư trên thực tế và bảo vệ sự độc quyền của họ.

Ở một số khu vực pháp lý nhất định (đặc biệt là các quốc gia nhỏ như Bỉ và New Zealand), luật sư được thừa nhận và quy định ở cấp quốc gia. Các tiểu bang liên bang (chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada, Úc và Đức) chắc chắn phải áp dụng quy định của tỉnh hoặc tiểu bang. Luật sư Ý được thừa nhận ở cấp khu vực.

Trong khi ở một số quốc gia, quy định nằm dưới quyền hạn và do cơ quan tư pháp thực hiện, nghề luật độc lập, luật sư ở các khu vực tài phán khác, đặc biệt là khu vực dân luật, phải chịu sự kiểm soát của chính phủ dưới hình thức của Bộ Tư pháp.

Luật sư tại tòa án

Các luật sư xuyên tạc khiến nó lâm vào tình trạng rối loạn mà ở đó, giá trị nguyên bản của vụ việc từ lâu đã biến mất khỏi thực tế. Nó là Di chúc và những ủy thác theo Di chúc – hoặc đã từng là Di chúc. Giờ đây, Di chúc không là gì khác ngoài Chi phí. Chúng ta luôn xuất hiện, biến mất, thề hứa, thẩm vấn, đệ trình, đệ trình chéo, biện luận, đóng dấu chứng thực, ra hiệu, chuyển giao xem xét, tường trình và suy xét về Đại pháp quan (Quan chưởng ấn – Lord Chancellor) cũng như tất cả các tay sai của ông, một cách công bằng chúng ta thả mình vào cái chết mơ hồ về Chi phí. Đó là nghi vấn tuyệt vời. Tất cả những thứ còn lại, bằng vài biện pháp khác thường, đã tan biến đi.

Charles Dickens, Bleak House, Chapter VIII

Hỗ trợ pháp lý

Nhiều xã hội trợ giúp pháp lý cho những người không có khả năng trả tiền thuê luật sư. Quyền tiếp cận công lý sẽ trở nên vô nghĩa nếu không được cung cấp dịch vụ tư vấn và trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đặc biệt trong các vụ án hình sự. Thậm chí, ngay cả đối với các vụ kiện dân sự, những chuẩn mực cơ bản của sự công bằng cũng sẽ bị phá hủy khi một bị đơn túng quẫn bị một nguyên đơn giàu có hoặc nhà nước khởi kiện. Mọi sự bình đẳng trước pháp luật do đó đều tan vỡ. Chi phí bao hàm (cho cả nhà nước và cá nhân tìm kiếm sự trợ giúp pháp lý) thường ưu tiên hỗ trợ những người bị buộc tội hình sự, mặc dù một số khu vực pháp lý vẫn cung cấp trợ giúp pháp lý miễn phí trong các vụ việc dân sự. Một số hệ thống trợ giúp pháp lý nhất định cung cấp các luật sư được tuyển dụng riêng đại diện cho những khách hàng đủ tư cách và nghèo khó. Những hệ thống trợ giúp pháp lý khác chỉ định những người hành nghề luật sư tư nhân đại diện cho những cá nhân như vậy.

Ảnh 17. Luật sư chỉ có thể làm nhiều hơn vì khách hàng của họ

Quyền đại diện của Gideon

Gideon bị buộc tội tại một tòa án ở bang Florida vì đã đột nhập vào phòng trữ đồ với ý định phạm tội nhẹ. Xuất hiện trước tòa mà không có tiền và không có luật sư, anh ta yêu cầu tòa chỉ định luật sư biện hộ cho mình. Cuộc đối thoại sau đây đã diễn ra:

Tòa án: Anh Gideon, tôi xin lỗi, nhưng tôi không thể chỉ định Luật sư đại diện cho anh trong trường hợp này. Theo luật của Bang Florida, lần duy nhất Tòa án có thể chỉ định Luật sư đại diện cho Bị đơn là khi người đó bị buộc tội cố ý. Tôi xin lỗi, nhưng tôi sẽ phải từ chối yêu cầu của anh về việc chỉ định Luật sư bào chữa cho anh trong trường hợp này.

Gideon: Tòa án Tối cao Hoa Kỳ nói rằng tôi có quyền có Luật sư đại diện.

Gideon tự bào chữa cho mình, bị kết tội và bị phạt tù 5 năm. Sau đó, anh ta kháng cáo trên cơ sở tòa án xét xử từ chối chỉ định luật sư cho mình đã phủ nhận quyền của anh ta “được bảo đảm bởi Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền của Chính phủ Hoa Kỳ”. Tòa án Tối cao Tiểu bang đã bác bỏ đơn kháng cáo của Gideon. Từ phòng giam của mình, Gideon đã kháng cáo lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ với lý do anh ta bị từ chối quyền có luật sư và do đó, các quyền của anh ta theo Tu chính án thứ mười bốn đã bị vi phạm mà không đúng thủ tục pháp lý. Gideon được chỉ định một luật sư nổi tiếng, Abe Fortas (sau đó được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án Tối cao). Tòa án cho rằng quyền được hỗ trợ luật sư là quyền cơ bản, cần thiết cho một phiên tòa công bằng, do vậy, nhấn mạnh các biện pháp bảo vệ theo thủ tục phải đúng quy trình pháp lý. Sự giàu có hoặc trình độ học vấn của bị cáo không liên quan đến vấn đề đại diện pháp lý. Vụ việc đã được chuyển lên Tòa án Tối cao Florida vì “có thêm hành động mâu thuẫn với phán quyết này”. Gideon được xét xử lại, lần này có đại diện pháp lý và được tuyên trắng án.


Bài viết xem thêm