Tòa án

Tòa án

Thẩm phán là hiện thân của luật pháp. Chức năng tư pháp thể hiện thái độ áp dụng công bằng, liêm chính và pháp quyền. Các thẩm phán giải quyết tranh chấp, trừng phạt người phạm tội và xác định tội danh khi không có bồi thẩm đoàn. Trong các bài báo cáo khoa trương về luật pháp và hệ thống pháp luật, thẩm phán là người giám sát, bảo vệ các giá trị pháp luật: giống như lính canh công lý và đảm bảo cuộc chơi công bằng.

Đặc biệt, vai trò của thẩm phán trong các phiên tòa hình sự thu hút sự quan tâm của công chúng. Sự kịch tính của tòa án luật là điều không thể cưỡng lại đối với các tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch cũng như các biên kịch phim truyền hình và phim điện ảnh. Ở các nước nói tiếng Anh, vài điều ngay lập tức được gợi nhắc. Dickens ’Bleak House là ví dụ điển hình. Ngoài ra, Albert Camus’s The Fall, Kafka’s The Trial và miêu tả nổi tiếng về quy trình xét xử trong Harper Lee’s To Kill a Mockingbird, Scott Turow’s Presumed Innocent, John Mortimer’s Rumpole of the Bailey và tiểu thuyết bán chạy nhất của John Grisham là những ví dụ nổi bật khác. Shakespeare đã mang đến sự thể hiện khó quên về lý tưởng công lý cũng như quy trình pháp lý trong The Merchant of Venice. Phim truyền hình về phòng xử án có rất nhiều. Các thần tượng Matinée thường được chọn làm những người bào chữa gan dạ: như Gregory Peck trong phiên bản phim To Kill a Mockingbird, Paul Newman in The Verdict. Tòa án và luật sư là yếu tố tạo nên nhiều bộ phim truyền hình thành công, trong đó Ally McBeal, The Practice và LA Law chỉ là những phiên bản gần đây.

Dễ dàng hiểu tại sao các thủ tục tại tòa lại hấp dẫn và mang tính giải trí. Sân khấu của phiên tòa hình sự thường xuyên tạo nên sự lôi cuốn. Cuộc đụng độ của các luật sư, số phận không chắc chắn của bị cáo, bằng chứng lắt léo – tất cả đều kích thích sự tò mò mãn nhãn trong mỗi phần trình bày. Và đôi khi, mô tả hư cấu của quá trình xét xử cũng ngoạn mục không kém các phiên tòa thực sự, đặc biệt ở Hoa Kỳ, thường được truyền hình trực tiếp. Khi một người nổi tiếng bị xét xử, các camera tại tòa đảm bảo sẽ có lượng lớn người xem – tội ác bị cáo buộc càng ghê rợn càng tốt. Tuy nhiên, rất ít phiên tòa đạt được mức độ sôi nổi hoặc sự mê hoặc này; các phiên tòa có xu hướng ảm đạm và nhạt nhẽo.

Trong khi phiên tòa hình sự có thể trở nên sôi nổi bởi những bằng chứng hấp dẫn thì các phiên tòa dân sự thường không như vậy. Tòa án tham gia vào việc giải quyết tranh chấp. Luật sư đại diện cho các bên cố gắng thuyết phục tòa án về tính xứng đáng trong trường hợp của họ. Ở phiên tòa thông luật, một bên viện dẫn phán quyết trước đó, lập luận trường hợp hiện tại đủ tương đồng với trường hợp trước đấy và do vậy, nó phải được tuân theo. Bên còn lại tìm cách phân biệt tiền lệ này bằng cách xác định những điểm khác biệt tinh tế của nó. Đây là bản chất lý luận pháp lý. Nếu bên thua kiện kháng cáo, các lập luận sẽ được trình bày lại trước các thẩm phán ở cấp cao hơn.

Các thẩm phán chắc chắn thực hiện trách nhiệm khó khăn:

Thật tuyệt vời khi đứng trước thẩm phán và chờ đợi phán quyết của ông ấy… Ông ấy tượng trưng cho sự hợp nhất của khái niệm công lý và sự cưỡng chế có tổ chức, giữa con người lý trí với đám vũ phu quần chúng. Trong ông ấy đã được khơi dậy những lý tưởng của nền văn hóa của mình và sức mạnh buộc người khác phải phục tùng. Khi một công dân đứng trước tòa, anh ta cảm thấy tác động tức thời của quyền lực đó; tất cả được tập hợp và tập trung ở đó vào anh ta.

Nhà triết học pháp lý đương đại hàng đầu, Ronald Dworkin, đã nhận xét một cách đáng nhớ “các tòa án là thủ phủ của đế chế luật pháp và các thẩm phán là những ông hoàng của đế chế đó”. Tòa án đóng vai trò trung tâm trong mọi hệ thống pháp luật. Nhưng chính xác vai trò đó là gì? Chức năng chính trị của thẩm phán là gì? Việc bổ nhiệm, bầu cử và trách nhiệm giải trình của họ là gì? Hệ thống bồi thẩm đoàn có phải là yếu tố giá trị trong quản lý tư pháp hình sự, đặc biệt trong các phiên tòa hình sự thương mại phức tạp? Hệ thống đối nghịch của các quốc gia thông luật có ưu thế hơn so với hệ thống tòa án của các cơ quan tài phán dân luật không?

Vai trò của các thẩm phán là nguyên tắc cơ bản của thông luật; sức mạnh ly tâm của chức năng tư pháp điều khiển hệ thống pháp luật cả về lý luận và thực tiễn. Dù ít quan trọng hơn trong các hệ thống pháp điển của Châu Âu Lục địa, song sự ảnh hưởng của các thẩm phán không hề bị phóng đại.

Thẩm phán là thể chế pháp lý nguyên mẫu. Dưới chiếc áo choàng của mình và sự độc lập cao cả, ông ấy đại diện cho sự tôn sùng công lý. Theo cách nói của thẩm phán người Anh, Lord Devlin, “dịch vụ xã hội” ông ấy mang lại cho cộng đồng chính là “xóa bỏ cảm giác bất công”. Tính trung lập cho thấy các phán quyết của thẩm phán trong việc giải quyết tranh chấp luôn thể hiện niềm tin vào một xã hội tự do và công bằng. Vị thẩm phán công minh là tinh hoa của hệ thống chính quyền dân chủ. Sự phân định rõ ràng giữa pháp luật và xét xử là một trong những dấu ấn trứ danh nhất của nó.

Dù nhận thức lôi cuốn và bền bỉ về chức năng tư pháp bị những người hoài nghi coi là hoang đường nhưng không sự hoài nghi nào có thể dễ dàng đánh bật hình ảnh thẩm phán là người gìn giữ luật, người bảo vệ và là kho lưu trữ công lý. Điều này không phủ nhận các thẩm phán, cũng giống như tất cả chúng ta, có thể bị suy đồi bởi toan tính cá nhân và định kiến chính trị. Đôi khi sự thừa nhận yếu kém về mặt tư pháp, theo nghĩa nào đó, là lật đổ, như thẩm phán nổi tiếng người Mỹ Benjamin Cardozo đã nói nếu các thẩm phán đánh mất sự tôn trọng và tự tin thì hãy nhớ họ cũng phải chịu những giới hạn của con người”.

Ảnh 10. Tòa án luật thời Trung cổ (c. 1450)

Chức năng tư pháp là gì?

Công trình tư pháp là trọng tâm của quy trình pháp lý. Để tìm cách làm sáng tỏ những bí ẩn về cách các thẩm phán phán quyết vụ án, chúng ta đang tham gia vào cuộc tìm kiếm ý nghĩa của luật: lý thuyết cấu thành luật, ở mức cần thiết, được giả định trong hành vi xét xử cũng như bất kỳ miêu tả nào về việc xét xử. Mô hình chính thống, được gọi là “chủ nghĩa thực chứng” nhìn nhận luật pháp như một hệ thống các quy tắc; khi không có quy định áp dụng hoặc có sự mơ hồ hoặc sự không chắc chắn, thẩm phán có toàn quyền lấp đầy những khoảng trống trong luật.

Quan điểm này bị thách thức một cách thuyết phục bởi Ronald Dworkin, người phủ nhận luật chỉ bao gồm các quy tắc. Ngoài các quy tắc (“có thể áp dụng rập khuôn tất cả hoặc không”), còn có các tiêu chuẩn phi quy tắc: “nguyên tắc”“chính sách”, không giống như các quy tắc, có “thứ nguyên trọng lượng hoặc tầm quan trọng”. “Nguyên tắc”“tiêu chuẩn cần được tuân thủ, không phải vì nó thúc đẩy hoặc bảo đảm tình hình kinh tế, chính trị hoặc xã hội…, mà vì nó là yêu cầu của công lý hoặc sự công bằng hoặc một số khía cạnh khác của đạo đức”. Mặt khác, “chính sách”“loại tiêu chuẩn nhằm thiết lập mục tiêu cần đạt, nói chung là sự cải thiện một số đặc điểm kinh tế, chính trị hoặc xã hội của cộng đồng”. Khi không tìm được quy tắc để áp dụng ngay lập tức hoặc không có quy tắc để tuyên bố phán quyết, thẩm phán được phép cân nhắc các nguyên tắc cạnh tranh, dù không phải là quy tắc nhưng chúng không kém gì luật lệ. Trong những “trường hợp khó xử” như vậy, vì không được dựa vào ý kiến cá nhân để đưa ra phán quyết nên trái với quan điểm của chủ nghĩa thực chứng, thẩm phán không có quyền quyết định thực sự. Luôn có câu trả lời đúng và nhiệm vụ của thẩm phán là phải tìm ra câu trả lời đó (trong “trường hợp khó xử) bằng cách cân nhắc các nguyên tắc cạnh tranh và xác định quyền của các bên trong vụ án trước mắt.

Mô hình xét xử này có một sức hấp dẫn rõ ràng đối với lý thuyết dân chủ: thẩm phán không lập pháp; họ chỉ thực thi những quyền được ban hành bởi cơ quan lập pháp đại diện. Thật vậy, luận điểm của Dworkin xuất phát từ mối quan tâm đến việc “xác định và bảo vệ lý thuyết tự do về luật” và trái ngược với chủ nghĩa thực chứng là “thật sự nắm giữ các quyền”. Về cơ bản, đó là lập luận từ nền dân chủ; Mối quan tâm của Dworkin hướng tới loại bỏ quyền tư pháp mạnh mẽ được giả thuyết dựa trên sự công kích của các thẩm phán, những người thường là quan chức không qua bầu cử không thể chịu trách nhiệm trước cử tri, có quyền lập pháp hoặc bán lập pháp.

Tòa án có phải là diễn đàn tốt nhất để giải quyết tranh chấp không? Thẩm phán có thể công tâm hay khách quan không? Mục đích của phiên tòa hình sự là gì? Các tòa án nhất định – chẳng hạn như Tòa án Tối cao Hoa Kỳ – có quá mang tính chính trị không? Có nên bầu cử thẩm phán không? Hệ thống bồi thẩm đoàn có hiệu quả và công bằng không? Chương này sẽ cố gắng trả lời một số câu hỏi trên.

Tòa án là gì?

Xung đột phổ biến giữa con người đòi hỏi một vài diễn đàn mà ở đó có thể giải quyết một cách thân thiện. Tòa án là điều kiện tiên quyết của tất cả các hệ thống pháp luật. Tòa có quyền lực, quyền hạn – hoặc cái mà luật sư gọi là “quyền tài phán” – đối với các vấn đề hình sự, dân sự và các vấn đề khác được chỉ định. Điều này dẫn đến các phán quyết của tòa (cuối cùng được hỗ trợ bởi vũ lực) được các bên chấp nhận là có thẩm quyền, song nếu không tin tưởng vào tính độc lập và công bằng của các thẩm phán chuyên nghiệp, các bên tham gia sẽ khó chấp nhận là có thẩm quyền.

Tòa án sai phạm. Các thẩm phán không được miễn trừ nhược điểm của con người, thay vào đó, cần phải sửa chữa những sai lầm của họ. Sự bất công của một bị cáo rõ ràng bị kết án sai được giải quyết bằng cách cho anh ta quyền được kháng cáo. Tương tự, bên thua kiện trong vụ án dân sự có thể có căn cứ pháp lý chính đáng cho rằng tòa án xét xử đã nhầm lẫn trong việc giải thích luật của mình. Kháng cáo lên tòa án cấp cao hơn đòi hỏi thứ tự cấp bậc vốn phân biệt giữa các tòa án sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Một số tòa án xét xử hoạt động với một thẩm phán và bồi thẩm đoàn: bồi thẩm đoàn có trách nhiệm đưa ra những phát hiện về tình tiết dưới sự chỉ đạo của thẩm phán, người quyết định luật. Sự kết hợp này tạo thành phán quyết của tòa án. Ở các tòa án xét xử khác, cả tình tiết và luật đều do thẩm phán quyết định.

Các tòa án phúc thẩm trong khu vực tài phán thông luật xem xét lại phán quyết của các tòa án cấp xét xử hoặc của các tòa án cấp phúc thẩm cấp dưới. Nhiệm vụ của họ nói chung bị hạn chế trong việc xem xét các câu hỏi về luật: chẳng hạn, tòa án xét xử đã áp dụng và giải thích luật một cách chính xác chưa? Thông thường, họ không được thấy bằng chứng về các vấn đề thực tế, mặc dù nếu bằng chứng mới xuất hiện, tòa án cấp phúc thẩm có thể đánh giá nó để xác định xem có nên chuyển vụ án qua tòa sơ thẩm để xét xử lại hay không.

Các tòa án ở khắp mọi nơi một cách tự nhiên tuân theo những thủ tục mà ở một số quốc gia, chúng đã phát triển đồ sộ và phức tạp. Trong các phiên tòa hình sự, các thủ tục này được phân biệt rộng rãi trên cơ sở vai trò của thẩm phán. Thông luật áp dụng hệ thống “đối nghịch”, trong khi các quốc gia dân luật áp dụng hệ thống “thẩm tra” (hoặc “tố cáo”). Mặc dù sự khác biệt này thường được phóng đại nhưng hai cách tiếp cận khác nhau đều theo hướng khá cơ bản. Thẩm phán thông luật hoạt động như một trọng tài khách quan, hiếm khi sa vào các cuộc xung đột. Mặt khác, các thẩm phán dân luật đóng vai trò tích cực hơn trong việc xét xử.

Chỉ thị của điều tra viên trong hệ thống luật pháp châu Âu lục địa liên quan trực tiếp đến quyết định có truy tố hay không. Văn phòng điều tra bắt nguồn từ Pháp và tồn tại ở một số quốc gia châu Âu khác, bao gồm Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thụy Sĩ, Hà Lan, Bỉ và Bồ Đào Nha. Điều tra viên thường được miêu tả là lai giữa công tố viên và thẩm phán nhưng điều này không hoàn toàn chính xác, vì ông ấy không phán quyết có buộc tội hay không; đó là vấn đề của công tố viên, còn từ văn phòng của mình, công việc của ông ấy hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ chính của điều tra viên, như tiêu đề ngụ ý, là điều tra bằng chứng cho nghi phạm và bằng chứng chống lại nghi phạm, người mà ông ấy có quyền thẩm vấn. Ông ấy cũng sẽ thẩm vấn các nạn nhân và nhân chứng. Ông ấy có thể đến thăm hiện trường vụ án và tham dự bất kỳ cuộc khám nghiệm tử thi nào. Trong quá trình điều tra, ông ấy có thể cho phép tạm giam, cho tại ngoại, ra lệnh khám xét và thu giữ chứng cứ.

Ảnh 11. Thẩm phán cấp cao của Pháp và quan chức pháp lý trong trang phục của họ

Điều quan trọng cần lưu ý là công việc của điều tra viên không phải xác định công trạng của vụ án mà là xem xét chứng cứ để quyết định xem nghi phạm có bị buộc tội hay không. Nếu ông ấy đưa ra quyết định khẳng định, vụ việc sẽ được chuyển đến một tòa án xét xử, nơi ông ấy không có liên hệ gì và không bị ràng buộc phải tuân theo quyết định của mình. Do đó, chức năng của điều tra viên không hoàn toàn khác với các thủ tục tố tụng theo thông luật hoặc đại bồi thẩm đoàn Hoa Kỳ, cả hai đều được thiết kế để sàng lọc bằng chứng nhằm xác định xem liệu có vượt qua ngưỡng khả năng xử lý hay không. Mặc dù thẩm phán giám sát nhưng đại bồi thẩm đoàn do công tố viên chủ trì, có quyền triệu tập nhân chứng để lần theo bằng chứng chống lại nghi phạm.

Cả hai hệ thống chính đều có những ưu điểm và khuyết điểm. Thường có sự khẳng định – đặc biệt là khẳng định của các luật sư thông luật – thông luật có ý nghĩa và giá trị lớn hơn với giả định vô tội bằng cách đặt gánh nặng nhiều hơn cho công tố để chứng minh trường hợp của mình “vượt quá mức nghi ngờ hợp lý”. Đây là điểm đáng ngờ. Một bị cáo tại tòa án Pháp về cơ bản được cung cấp các quyền và sự bảo vệ giống như một bị cáo ở Florida. Tất cả các quốc gia dân chủ công nhận giả định vô tội; thực sự, đó là yêu cầu của Điều 6 Công ước Châu Âu về Nhân quyền áp dụng cho 46 quốc gia thành viên Hội đồng Châu Âu.

Chỉ trích hệ thống đối nghịch không chỉ hạn chế với các luật sư dân luật. Tiến hành các phiên tòa hình sự đôi khi kỳ quặc, đặc biệt ở Mỹ, là sự bối rối đối với các luật sư thông luật. Quy trình này đôi lúc trở nên khó khăn, trong đó, luật sư lạm dụng quy trình đối nghịch và dường như không nhìn thấy mục đích thể chế. Bằng chứng đặc biệt rõ ràng là các phiên tòa xét xử người nổi tiếng trên truyền hình với các luật sư được trả lương quá cao, song chỉ chơi đùa trước máy quay và trước bồi thẩm đoàn. Nhiều luật sư dân luật cũng ngạc nhiên bởi cách thức của hệ thống tư pháp hình sự thông luật dường như mang lại lợi ích cho các bị cáo giàu có, những người có khả năng chi trả cho các đội ngũ pháp lý lớn. Các vụ xét xử của O. J. Simpson và Michael Jackson là những ví dụ dễ thấy nhất gần đây.

Ảnh 12. Tuyên bố trắng án về tội giết người của cựu ngôi sao bóng đá Mỹ O. J. Simpson khiến mọi người nghi ngờ về độ tin cậy của hệ thống bồi thẩm đoàn, đặc biệt khi bằng chứng DNA, theo quan điểm của nhiều người, đã xác lập rõ ràng tội trạng của bị cáo

Quyền được điều trần công bằng

Tất cả mọi người bình đẳng trước tòa án và hội đồng xét xử. Khi xác định bất kỳ cáo buộc hình sự nào chống lại một người, hoặc chống lại các quyền và nghĩa vụ của người đó trước một vụ kiện pháp luật, mọi người được quyền xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và khách quan, được thành lập theo luật định.

Điều 14 (1) Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

Các vụ truy tố theo thông luật thường theo cách buộc tội hoặc cáo trạng chống lại bị cáo nhân danh chính phủ, nhà nước, hoặc ở Vương quốc Anh, là nhân danh Nữ hoàng. Điều này diễn ra sau một phiên điều trần sơ bộ nào đó nhằm xác định bằng chứng truy tố có đầy đủ hay không. Để xóa bỏ nghĩa vụ chứng minh của mình, bên công tố sẽ gọi các nhân chứng và trình bày bằng chứng chống lại bị cáo. Người bào chữa sau đó có thể lập luận “không có trường hợp nào để trả lời”. Nếu không thành công (như thường lệ), nhân chứng và bằng chứng sẽ được người bào chữa trình bày. Các nhân chứng bị luật sư đối lập thẩm vấn nhưng bản thân bị cáo có “quyền im lặng”: anh ta không cần nói gì khi bào chữa cho mình nhưng nếu quyết định đưa ra bằng chứng, anh ta buộc phải nộp lên để kiểm tra đối chiếu. Tại Hoa Kỳ, quyền này được bảo vệ bởi Tu chính án thứ năm của Hiến pháp. Cả hai bên sau đó trình bày lý lẽ cuối cùng của họ. Ở nơi có bồi thẩm đoàn, thẩm phán sẽ đưa ra những chỉ dẫn cho họ. Các thành viên của bồi thẩm đoàn sau đó thảo luận kỹ lưỡng một cách riêng tư. Một số khu vực pháp lý yêu cầu toàn bộ thành viên của bồi thẩm đoàn phải nhất trí đưa ra lời phán quyết, trong khi những khu vực pháp lý khác thì chỉ cần đa số thành viên bồi thẩm đoàn nhất trí là đủ.

Kết án

Nếu bị kết tội, bị cáo sẽ bị kết án. Điều này thường xảy ra sau khi tòa án đánh giá hồ sơ tội phạm trước đây của bị cáo, nếu anh ta có tiền án hoặc bất kỳ thông tin khác về nhân cách của mình. Khi phải đối mặt với viễn cảnh bản án bị giam giữ, các báo cáo có thể được nộp cho tòa án liên quan đến lý lịch của bị cáo: trình độ học vấn, gia đình, lịch sử việc làm của anh ta, v.v. Các báo cáo tâm lý hoặc y tế cũng được trình bày, cùng với bằng chứng, bao gồm cả nhân chứng để làm chứng cho sự toàn vẹn đáng tin cậy về anh ta. Nó đi kèm theo sau lời cầu xin cảm động nhằm giảm nhẹ bản án mà trong đó, luật sư của bị cáo cố gắng thuyết phục tòa án bị cáo là nạn nhân của những thăng trầm tàn nhẫn và sự thiếu thốn trong cuộc sống: nghèo đói, bị người khác thao túng, sự nuôi dạy con cái nghèo nàn của bậc cha mẹ và những tác động mạnh mẽ tương đương khác vốn nằm ngoài tầm kiểm soát của anh ta, do đó, trách nhiệm thực sự cho tội ác của bị cáo nằm ở đâu.

Tất nhiên, mọi cơ quan tài phán sẽ có các mức án khác nhau dành cho tòa án xét xử. Các mức có thể bao gồm hình phạt tù, nộp tiền phạt, lệnh quản chế, lệnh phục vụ cộng đồng hoặc án treo (thời hạn tù treo, ví dụ, hai năm; nếu bị cáo phạm tội trong thời gian này, có thể kích hoạt bản án gốc).

Bị cáo bị kết án không bị hạn chế kháng cáo lên tòa án cấp cao hơn, nơi không xét xử lại vụ án nhưng xem xét hồ sơ của quá trình tố tụng để tìm kiếm sai sót bào chữa cho việc tái thẩm. Trong một số trường hợp nhất định, công tố có thể kháng nghị một bản án mà họ cho là quá khoan hồng.

Những phiên tòa xét xử dân sự

Sự khác biệt giữa các phương pháp tiếp cận thông luật và dân luật ít được ghi dấu trong các phiên tòa dân sự. Tuy nhiên, luật pháp của Pháp đã tiến gần đến việc loại bỏ các phiên tòa dân sự: quá trình chuẩn bị trước khi xét xử rộng rãi do thẩm phán trước khi xét xử (juge de la mis en état) thực hiện dẫn đến các lời bào chữa và bằng chứng bị giảm thành văn bản. Các luật sư chỉ trình bày tóm tắt ngắn gọn về những gì mà tòa đã có trước đó. Hơn nữa, tiêu chuẩn chứng minh trong các phiên tòa dân sự của Pháp ở các vụ án dân sự không thấp hơn so với tiêu chuẩn chứng minh trong các phiên tòa hình sự.

Ở những quốc gia dân luật, thẩm phán “thông thường” chủ tọa các tòa án “thông thường”. Quyền tài phán của họ, nói một cách rộng rãi, liên quan đến việc áp dụng các bộ luật dân sự, thương mại, hình sự và luật bổ sung cho các bộ luật. Ở Pháp, tòa án cao nhất trong cơ cấu tòa án thông thường là Tòa giám đốc thẩm (Tòa giám đốc thẩm tối cao) bao gồm khoảng 100 thẩm phán ngồi trong sáu hội đồng chuyên trách luân phiên (năm dân sự và một hình sự), ở một số trường hợp nhất định, 100 thẩm phán này ngồi trong các hội đồng kết hợp hoặc phiên họp toàn thể. Tòa giám đốc thẩm có quyền quyết định chỉ xem xét những vấn đề giải thích theo luật định. Đức có một số hệ thống tư pháp độc lập, mỗi hệ thống có tòa án tối cao riêng. Hầu hết các hệ thống dân sự cũng kết hợp một nhóm các tòa án hành chính với quyền tài phán riêng biệt.

Hệ thống đối địch cũng được áp dụng trong các phiên tòa dân sự thông luật. Thay vì chính phủ hoặc Nữ hoàng tiến hành tố tụng chống lại bị đơn, một nguyên đơn bị xâm phạm sẽ kiện bị đơn, thường là yêu cầu bồi thường thiệt hại, tức là bồi thường bằng tiền (vì hành vi sai trái, vi phạm hợp đồng hoặc sai phạm dân sự khác). Cả hai bên đều được tự do gọi nhân chứng và các quy tắc về bằng chứng nói chung là giống như trong các phiên tòa hình sự. Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng là trong khi, như chúng ta đã thấy, nghĩa vụ chứng minh trong phiên tòa hình sự là “vượt quá mức nghi ngờ hợp lý” thì nguyên đơn trong một vụ án dân sự chỉ cần chứng minh trường hợp của mình “trên cơ sở xác suất”.

Những thẩm phán là ai?

Các thẩm phán thông luật, ngoại trừ Hoa Kỳ, được bổ nhiệm từ hàng ngũ luật sư cao cấp, trong khi các thẩm phán châu Âu Lục địa được tuyển dụng theo loại chức vụ dân sự. Họ thường được tuyển dụng trực tiếp từ trường đại học thông qua một số hình thức kiểm tra công khai mà không yêu cầu kinh nghiệm chuyên môn trước đó. Các ứng viên thành công được bổ nhiệm ở cuối thang nghề nghiệp; đào tạo nghiệp vụ diễn ra ở cơ quan tư pháp với sự thăng tiến tùy thuộc vào thành tích. Cạnh tranh công khai được coi là phương pháp hữu hiệu nhất để duy trì vị thế chuyên nghiệp và tính độc lập của ngành tư pháp. Nó kiểm tra sự thiên vị chính trị và chủ nghĩa gia đình trị, song nỗi sợ hãi về việc thúc đẩy thành kiến ​​có thể hạn chế tinh thần độc lập thực sự tách khỏi cơ quan hành pháp. Cũng có khả năng hành nghề luật tư nhân thường sinh lợi đáng kể hơn là sự nghiệp ngồi trên ghế quan tòa, do đó, những người tốt nghiệp ngành luật có năng khiếu hơn có thể không muốn tham gia vào chức vụ này.

Vị thế ở Hoa Kỳ rất phức tạp. Các tòa án liên bang được chia thành ba cấp: Tòa án tối cao, Tòa cấp phúc thẩm và Tòa án địa hạt. Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, tổng thống có quyền đề cử và cùng với Thượng viện bổ nhiệm các thẩm phán của cả ba tòa án. Tổng thống đề cử các ứng cử viên vào Thượng viện sau khi nhận được tiến cử từ Bộ Tư pháp và nhân viên Nhà Trắng. Bộ Tư pháp sàng lọc các ứng cử viên tiềm năng, sau đó là cuộc điều tra ứng viên của FBI. Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ đưa ra các quan điểm tìm kiếm sự phù hợp ở người được đề cử.

Văn phòng Luật sư Nhà Trắng cũng đóng vai trò nhất định; nó hoạt động cùng Bộ Tư pháp và các thành viên Thượng viện, xem xét tiến cử của các thành viên Hạ viện, thống đốc bang, các đoàn luật sư và các cơ quan khác. Ủy ban Tư pháp Thượng viện xem xét kỹ lưỡng thông tin của các ứng cử viên. Nếu Ủy ban này từ chối một đề cử thì đề cử đó sẽ được gửi trả lại cho tổng thống để ông cung cấp một cái tên khác. Các đề cử của Ủy ban Tư pháp Thượng viện được Thượng viện xem xét trong các phiên họp hành pháp. Các ứng cử viên không gây tranh cãi có xu hướng được nhất trí xác nhận. Trong số 154 đề cử cho Tòa án Tối cao Hoa Kỳ từ năm 1789 đến năm 2004, chỉ có 34 đề cử không được Thượng viện xác nhận. Tuy nhiên, khi đưa ra sự bổ nhiệm có khả năng tạo nên bất đồng, một cuộc tranh luận xảy ra. Sự tiến cử bị Ủy ban Tư pháp Thượng viện chống đối dẫn đến Thượng viện từ chối ứng cử viên. Người được đề cử thành công được chính thức bổ nhiệm bởi tổng thống.

Bản chất kéo dài của quá trình này, bao gồm cả sự cản trở thông qua dự luật ở nghị viện của các thượng nghị sĩ, cũng như chiều hướng tư tưởng có thể dự đoán được của hệ thống, đã thu hút nhiều sự chỉ trích đáng kể. Những người phỉ báng cho rằng nó làm suy yếu tính độc lập của cơ quan tư pháp. Những người bảo vệ phương pháp này đòi hỏi tổng thống và Thượng viện thực hiện một cuộc kiểm tra quan trọng và hợp pháp đối với thành phần và vị thế của cơ quan tư pháp liên bang. Ở cấp độ không – liên bang, các thẩm phán được bầu ở 21 tiểu bang của Mỹ; đây là điều hiếm gặp, không gặp ở bất kỳ khu vực dân luật hoặc thông luật nào khác. Mặc dù, nó có thể hấp dẫn các nhà dân chủ nhưng chắc chắn sẽ biến thẩm phán thành các chính trị gia, những người vì giữ công việc của mình buộc phải thu hút tình cảm và định kiến ​​phổ biến. So với đề cử dưới một chính phủ tham nhũng mà ở đó bổ nhiệm các thẩm phán bất kể năng lực của họ thế nào, hệ thống bầu cử đúng là được ưu tiên hơn nhưng dù vậy, rất ít luật sư ủng hộ điều mà John Stuart Mill gọi là “một trong những sai sót nguy hiểm nhất mà nền dân chủ từng phạm phải”.

Sự không hài lòng với phương pháp bổ nhiệm tư pháp, phần lớn dựa trên bản chất không đại diện của những người được bổ nhiệm (ít phụ nữ hoặc thành viên của các sắc tộc thiểu số), đã dẫn đến việc thông qua các ủy ban bổ nhiệm tư pháp nhằm mang lại sự minh bạch và công bằng hơn cho quá trình này. Ủy ban được giao phó chịu trách nhiệm lựa chọn. Nó tồn tại ở một vài tiểu bang của Hoa Kỳ cũng như ở Canada, Scotland, Nam Phi, Israel, Ireland và ở một số quốc gia châu Âu khác, bao gồm cả Anh và xứ Wales, nơi kể từ năm 2006, nó hoạt động như một cơ quan độc lập, công khai, không trực thuộc. Các ứng viên cho văn phòng tư pháp phải đệ trình mẫu đơn dài chín trang; các ứng viên trong danh sách ngắn được phỏng vấn. Họ được đánh giá theo năm tiêu chí: năng lực trí tuệ; phẩm chất cá nhân (chính trực, độc lập, có óc phán đoán, quyết đoán, khách quan, có năng lực, sẵn sàng học hỏi); khả năng thấu hiểu và giải quyết công bằng; quyền hạn và kỹ năng giao tiếp; tính hiệu quả.

Ảnh 13. Hầu hết trong các khu vực pháp lý thông luật, thẩm phán nữ là điều hiếm hoi. Ví dụ, ở Anh, người phụ nữ đầu tiên được bổ nhiệm vào Thượng Nghị viện (The House of Lords – Tòa phúc thẩm cuối cùng của Vương quốc Anh), tòa án cao nhất của đất nước, là vào năm 2005. Các thẩm phán nữ ngồi ở tòa án cao nhất của Nam Phi, Canada, Hoa Kỳ và New Zealand. Tòa án Tối cao Canada (ảnh dưới đây) có thẩm phán nữ đầu tiên vào năm 1982 và ba trong số chín thẩm phán của Canada hiện tại là phụ nữ, bao gồm cả Chánh án

Hoạt động chính trị của bộ máy tư pháp

Mặc dù Hiến pháp Hoa Kỳ không quy định rõ ràng cho Tòa án Tối cao quyền xem xét tư pháp nhưng kể từ vụ án Marbury kiện Madison năm 1803, Tòa án Tối cao đã khẳng định quyền bãi bỏ các luật mà nó cho là mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp. Ở đây, hình thức xem xét tư pháp rắn chắc nhất đòi hỏi một tòa án gồm các thẩm phán được bổ nhiệm (mặc dù có sự chấp thuận của Thượng viện) thực hiện quyền kiểm soát đối với các luật được ban hành một cách dân chủ. Làm như vậy, Tòa án đã tạo ra những biến đổi chính trị và xã hội lớn bằng cách tuyên bố vi hiến một loạt đạo luật của các quốc gia về các vấn đề đa dạng như phá thai, tránh thai, phân biệt chủng tộc và giới tính, tự do tôn giáo, ngôn luận và hội họp.

Tòa án tối cao Ấn Độ, với sự ủng hộ rộng rãi của công chúng, đã thể hiện tư pháp mức độ tích cực cao trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị và kinh tế, bao gồm hôn nhân, môi trường, nhân quyền, cải cách nông nghiệp và luật điều chỉnh các cuộc bầu cử. Các thẩm phán thường xuyên mô tả hiến pháp không chỉ là một văn kiện chính trị; nó được coi là tuyên ngôn tuân thủ của “triết học xã hội”. Triết lý này ngập tràn các giá trị quân bình đại diện cho cam kết cải cách xã hội nhằm phù hợp với các nguyên tắc công bằng xã hội, nó đã truyền cảm hứng cho những người lập ra hiến pháp. Đặc điểm nổi bật của luật học tòa án là khái niệm tranh tụng vì lợi ích cộng đồng, theo đó người nghèo được tiếp cận với tòa án. Tòa án thành lập nhằm bồi thường hợp pháp cho những người bị tước đoạt quyền lợi thì không nên bị cản trở bởi những hạn chế của hệ thống đối địch. Tương tự, nó đã giải thích đầy đủ Điều 21 Hiến pháp quy định “Không ai bị tước đoạt mạng sống hoặc quyền tự do cá nhân của mình trừ khi theo thủ tục do luật thiết lập”. Điều này tạo ra sự mở rộng đáng kể về các quyền cá nhân.

Theo hiến pháp hậu phân biệt chủng tộc, Tòa án Hiến pháp Nam Phi có quyền giải thích hiến pháp và đã đưa ra các phán quyết sâu rộng, bao gồm tuyên bố hình phạt tử hình là trái pháp luật và duy trì quyền có nhà ở, nghĩa vụ hiến pháp của nhà nước là đưa ra các biện pháp khắc phục hiệu quả chống bạo lực gia đình và quyền bình đẳng.

Sự xem xét tư pháp mạnh mẽ được thể hiện rõ ràng qua quyền lực của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nó có thể áp đặt các giải thích tư pháp của mình về Hiến pháp đối với các cơ quan khác của chính phủ. Mặt khác, các hình thức xem xét tư pháp yếu hơn cho phép cơ quan lập pháp và hành pháp bác bỏ các phán quyết như vậy, miễn là họ làm một cách công khai. Các hình thức xem xét tư pháp ngày càng được kết hợp chặt chẽ trong các hiến pháp và luật pháp (chẳng hạn như Đạo luật Nhân quyền của Anh năm 1998, Tuyên ngôn Nhân quyền của New Zealand năm 1990 và Hiến chương về Quyền và Tự do của Canada năm 1992).

Những nhà phê bình tư pháp phản đối quyền lực của thẩm phán vượt qua quyền lực của các nhà lập pháp được bầu cử một cách dân chủ. Ngay cả khi các cơ quan lập pháp là đại diện thực sự thì vẫn có sự nghi ngờ về những lập luận ủng hộ họ đứng ở vị trí mạnh hơn so với tòa án để bảo vệ và duy trì các quyền của chúng ta. Những thăng trầm của chính phủ và sự cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị không chỉ dễ bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ và sự thỏa hiệp, không nói đến tham nhũng, một cách chính xác, còn dễ bị ảnh hưởng bởi các thẩm phán không “chịu trách nhiệm giải thích” theo hướng họ là người bảo vệ quyền tự do. Hơn nữa, tính chất tư pháp, đào tạo, kinh nghiệm và diễn đàn pháp lý, ở đó những lập luận về nền tảng của các quyền được kiểm tra và tranh luận, tôi nghĩ, có xu hướng nghiêng về phân xử, thay vì lập pháp, giải quyết. Thật vậy, rất khó để biết lập pháp sẽ hoạt động như thế nào trong thực tế. Vì các quyền được đề cập, theo định nghĩa, đang bị tranh chấp, các nghị sĩ được bầu cử có thể đóng vai trò gì?

Thật không may, hiếm khi có sự biểu lộ lòng tin vào các nhà làm luật. Dù đôi khi gây ra tranh cãi nhưng những quyền cơ bản nhất định, tốt hơn hết các nhà lập pháp chỉ nên được nắm giữ giới hạn hoặc ít nhất, chúng phải nằm ngoài tầm với của các mưu đồ chính trị đảng phái thông thường. Liệu các quyền tự do dân sự của người Mỹ gốc Phi có được công nhận sớm hơn nếu không có phán quyết Brown mang tính lịch sử của Tòa án Tối cao, cho rằng các cơ sở giáo dục riêng biệt dành cho học sinh da đen và da trắng là “vốn dĩ không bình đẳng”? Tòa án Hiến pháp Nam Phi có nhiều khả năng bảo vệ nhân quyền hơn là quốc hội dân chủ mới? Có phải các phán quyết của Tòa án Nhân quyền Châu Âu (đặt tại Strasbourg, xem xét các khiếu nại liên quan đến cáo buộc vi phạm Công ước Châu Âu về Bảo vệ Nhân quyền và Quyền tự do cơ bản của các Quốc gia thành viên) không tăng cường quyền tự do dân sự ở Anh? Tòa án thường xuyên ra phán quyết chống lại chính phủ Anh, yêu cầu nước này sửa đổi nội luật về nhiều quyền được Công ước bảo vệ, bao gồm quyền riêng tư, quyền chống dùng nhục hình và quyền của bệnh nhân tâm thần.

Những thẩm phán có thành kiến?

Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều khiếu nại về tính hợp pháp – thậm chí, đôi khi là tính trung thực – của hành vi tư pháp cụ thể. Những người bảo thủ chính trị đã đưa ra những cáo buộc việc các thẩm phán cho mình có quyền cao hơn ý chí người dân, như được thể hiện trong các đạo luật và cuộc trưng cầu dân ý liên quan đến phá thai, quyền của người đồng tính, hành động khẳng định, tôn giáo và các chủ đề khác. Những người theo chủ nghĩa chính trị tự do đã đưa ra những cáo buộc việc các thẩm phán có thành kiến chống lại phụ nữ, hành vi sai trái về giới tính, hà khắc đối với lợi ích thiểu số và áp đặt bắt buộc các quan điểm chính trị bảo thủ sâu sắc. Từ cả hai phía… các cáo buộc đều là thẩm phán cho mình có quyền cao hơn ý chí người dân và bảo vệ các chính trị gia chuyên nghiệp bằng cách đánh đổ giới hạn nhiệm kỳ. Từ tất cả các nơi xử án – ngay cả các đoàn luật sư được trả giá cao – đều cáo buộc những thẩm phán của tòa án xét xử thường xuyên có hành vi chuyên chế và độc đoán. Được biết đôi khi còn tồn tại việc lạm dụng chức vụ và thậm chí hối lộ. Ngoài những vấn đề này, 34 năm làm giáo sư luật hay làm người tranh tụng đã thuyết phục tôi vẫn còn một vấn đề khác, một vấn đề đang rất phổ biến. Đó là các thẩm phán thường không muốn lắng nghe các sự kiện hoặc lý do. Thay vào đó, họ bắt đầu với những thiên kiến nghiêng về một phía – tất nhiên vì những thiên kiến này mà họ phủ nhận – sau đó, chứng minh không tiếp thu được các sự kiện thực tế và viện dẫn những lý do vốn trái ngược với thành kiến ​​của mình ... Khi các thẩm phán hành động dựa trên những thiên kiến trước đó, họ bỏ qua sự kiện thực tế và thậm chí bịa đặt ra những sự kiện đối lập, chúng phá hủy nguyên lý trung tâm của hệ thống tư pháp: phán quyết các vụ việc dựa trên sự kiện thực tế chứ không phải thành kiến. Chúng cũng… phá hủy niềm tin vào hệ thống tư pháp … Trước sự thiên kiến tư pháp và tính không thể tiếp thu liên quan đến các sự kiện thực tế, sự bịa đặt tư pháp về những sự kiện đối lập cùng các vấn đề đi đôi với nó là một trong những lo ngại quan trọng nhất của hệ thống tư pháp ngày nay. Sẽ có lợi cho hệ thống tư pháp, sẽ ngăn chặn luật pháp trở thành sự nhạo báng rỗng tuếch đối với những cam kết của nó và cũng sẽ giúp duy trì niềm tin ở công dân nếu các thẩm phán ngừng bỏ qua những sự kiện thực tế nhằm thực thi thiên kiến của chính mình.

Professor Lawrence R. Valvel, ‘A Rebuke of Modern Judicial Practices’ (2005) Judicial Accountability Initiative Law News Journal

Xét xử bởi bồi thẩm đoàn

Trong tố tụng hình sự, khái niệm được xét xử bởi bồi thẩm đoàn, “những người cùng địa vị”, thường được coi là đáng tin cậy trong hệ thống thông luật. Vài khu vực dân luật nhất định cũng sử dụng bồi thẩm đoàn để xác định tội danh hay sự vô tội của bị cáo. Ví dụ, ở Pháp, các thẩm phán ngồi cùng với bồi thẩm đoàn, những người cũng tham gia vào việc xác định mức án được áp dụng.

Các cơ quan tài phán vốn khác nhau ở tính sẵn có của bồi thẩm đoàn. Một số giới hạn bồi thẩm đoàn trong các phiên tòa hình sự chứ không phải dân sự (ví dụ: Pháp); những số khác quy định bồi thẩm đoàn xét xử các tội phạm nghiêm trọng (ví dụ: Canada); trong khi ở một số quốc gia (ví dụ: Anh và xứ Wales), bồi thẩm đoàn được sử dụng trong các vụ án hình sự và giới hạn trong một số vụ việc dân sự cụ thể (ví dụ: phỉ báng).

Dễ thấy nhất là các phiên tòa xét xử do bồi thẩm đoàn ở Hoa Kỳ, nơi có các bồi thẩm đoàn cho cả tố tụng dân sự và hình sự. Hơn 60% các phiên tòa xét xử của bồi thẩm đoàn là phiên tòa hình sự, còn lại là phiên tòa dân sự và các phiên tòa khác như thủ tục tòa án gia đình.

Ảnh 14. Bồi thẩm đoàn có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác ngoài bằng chứng

Trong số những đặc tính được ca ngợi nhiều ở phiên tòa của bồi thẩm đoàn là mức độ hoạt động như biện pháp hạn chế quyền lực và ảnh hưởng của thẩm phán. Có lập luận cho rằng có sự thể hiện các giá trị cộng đồng nếu bao gồm (thường là 12) công dân bình thường tham gia thi hành tư pháp. So với thẩm phán, người được nhìn nhận, dù đúng hay sai, như một đại diện của chính phủ thì nhóm những người được chọn ngẫu nhiên được khẳng định là những người phân xử dân chủ hơn.

Mặt khác, những người chỉ trích bồi thẩm đoàn thường bày tỏ sự không hài lòng về thực tế: các bồi thẩm đoàn, không giống như các thẩm phán, không bị đòi hỏi phải đưa ra lý do cho phán quyết của mình, do đó mở ra cánh cửa cảm xúc và thành kiến, đặc biệt khi chủng tộc của bị cáo là một nhân tố (ví dụ, trong vụ xét xử khét tiếng Rodney King, đã gây ra hậu quả thảm khốc, xem khung bên dưới). Sự hoài nghi cũng đặt ra đối với khả năng trung bình của bồi thẩm viên trong việc lĩnh hội các bằng chứng khoa học hoặc kỹ thuật phức tạp khác. Chẳng hạn, các phiên tòa xét xử thương mại phức tạp tạo ra một lượng lớn thông tin chuyên biệt cao. Điều này đã dẫn đến các đề xuất gây tranh cãi ở Anh và các nơi khác về việc bãi bỏ bồi thẩm đoàn trong các phiên tòa này.

Chủng tộc, Rodney King – và một bồi thẩm đoàn thành kiến?

Năm 1991, tại Los Angeles, vài xe cảnh sát đã đuổi theo Rodney G. King, một kẻ cướp giật bị cáo buộc chạy quá tốc độ. Sau cuộc truy đuổi của cảnh sát khi anh ta vượt đèn đỏ, King cuối cùng buộc phải dừng lại. Mặc dù hai hành khách trên xe tuân thủ yêu cầu của cảnh sát, bước ra khỏi xe và bị khuất phục trước sự phản kháng không đáng kể, nhưng King rõ ràng đã từ chối tuân thủ hướng dẫn của cảnh sát và bị cưỡng chế vật lý để làm điều đó. Anh ta đã bị các sĩ quan cầm dùi cui kim loại tấn công tới 56 lần, đá ít nhất sáu lần và bị bắn bằng súng điện tử Taser. Vụ đánh đập thực hiện bởi ba cảnh sát Los Angeles được cho là theo lệnh của một trung sĩ cảnh sát. 23 nhân viên thực thi pháp luật khác cũng có mặt và theo dõi vụ hành hung, song không nỗ lực ngăn chặn. Một số người ngoài cuộc ​​cũng chứng kiến ​​vụ đánh đập, một trong số họ đã quay lại video vụ việc. King bị nhiều vết thương, bao gồm nứt xương sọ và tổn thương dây thần kinh ở một phần khuôn mặt.

Bồi thẩm đoàn (gồm mười người da trắng, người gốc Tây Ban Nha và người châu Á) đã tuyên trắng án cho các bị cáo. Trong vòng vài giờ sau phán quyết của bồi thẩm đoàn, Los Angeles nổ ra bạo loạn. Khi bạo loạn kết thúc, 54 người chết, hơn 7.000 cá nhân bị bắt và tài sản trị giá hàng trăm triệu đô la đã bị phá hủy.

Sau đó, một số sĩ quan đã bị tòa án liên bang kết tội vi phạm các quyền hiến pháp của King và bị bỏ tù nhưng không có vụ truy tố nào cáo buộc cụ thể động cơ chủng tộc. Trên thực tế, chỉ tại phiên tòa liên bang, King lần đầu tiên đưa ra bằng chứng chứng minh mình bị các nhân viên cảnh sát phân biệt chủng tộc, dẫu anh ta thừa nhận bản thân không chắc đây có phải là tình tiết vụ án hay không.

Phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế

Từ lâu, các nhà phê bình đã bày tỏ sự bất mãn với việc tòa án là trọng tâm của phương pháp giải quyết tranh chấp, họ coi đó là không công bằng, quá mức hình thức và mang tính loại trừ giữa những phương pháp giải quyết khác. Tại Hoa Kỳ, phong trào ủng hộ phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế (ADR) “dưới sự bảo trợ của chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa cộng sản và các mối quan tâm về phúc lợi xã hội … phản đối việc làm mất nhân cách, mất sự thể hiện khách quan và khoảng cách, vốn liên quan đến hình thức phòng xử án và sự phụ thuộc của chúng vào các chuyên gia pháp lý. Họ ủng hộ các thủ tục mang tính ít bị phản đối hơn và thân thiện hơn với người dùng. Điều này dẫn đến luật pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng trọng tài phi tư pháp, đặc biệt trong giải quyết tranh chấp thương mại ở phạm vi quốc tế.

Các bên gửi tranh chấp của mình cho một hoặc nhiều trọng tài viên, người mà họ đồng ý bị ràng buộc theo quyết định (được gọi là “phán quyết”) của viên trọng tài này. Những lợi thế nhận thấy ở ADR chính là tốc độ, chi phí thấp hơn, linh hoạt và cung cấp trọng tài viên chuyên nghiệp trong các tranh chấp mang tính chuyên môn cao. Sự chậm trễ hiếm khi xảy ra và chi phí có thể tăng lên do nhu cầu mà các bên phải trả cho trọng tài viên. Ở một số khu vực pháp lý, khó giải quyết vấn đề thực thi phán quyết của trọng tài.

Tranh chấp: người Mỹ nóng nảy kiện người Anh hòa đồng

Dù Hoa Kỳ có vẻ giống Anh hơn bất kỳ quốc gia châu Âu nào khác nhưng tính cách dân tộc Hoa Kỳ hầu như trái ngược với người Anh. Sự tôn trọng, thuyết định mệnh, tính tự kiềm chế và không hiếu chiến chỉ là những đặc điểm kết luận gán cho người Mỹ. Tranh chấp kiện tụng là một kiểu chiến đấu và người Mỹ là chiến binh; người Anh hiện đại, bên ngoài sân vận động bóng đá, thì không phải chiến binh … Tính cách quốc gia có thể ảnh hưởng chứ không phải nguyên nhân và đặc điểm của hệ thống pháp luật chỉ là tác động khác của cùng một nguyên nhân hoặc thực tế hơn là cùng một phức hợp các nguyên nhân. Trình độ xã hội và thể chất cao ở Hoa Kỳ, nguồn gốc nhập cư của dân số, sự không đồng nhất về chủng tộc và sắc tộc, sự giàu có và thời gian rỗi của dân cư, có thể là nguyên nhân dẫn đến tính cách nóng nảy và chủ nghĩa cá nhân của người dân, cũng như sự đòi hỏi cao một cách độc lập đối với các quy trình tư pháp giải quyết tranh chấp. Một xã hội gắn bó, không thay đổi hình thức và tĩnh tại hơn, nói một cách đơn giản là có thể ít tranh chấp hơn – bởi mọi người hiểu nhau nhiều hơn, hoặc bởi tiếp tục mối quan hệ hoặc gặp gỡ nhau trong tương lai có khả năng đặt ra lợi ích cao hơn và do đó, cần tránh xung đột – hoặc có các phương pháp giải quyết tranh chấp không chính thức thì tốt hơn…

Richard A. Posner, Law and Legal Theory in England and America (Clarendon Press, 1996), pp. 109–10


Bài viết xem thêm