Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là trách nhiệm dân sự của người thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi gây tổn hại sức khoẻ cho người khác.

Một hành vi có thể gây tổn hại sức khỏe cho nhiều người; sự tổn hại sức khỏe của một người có thể do hành vi của nhiều người gây ra. Vấn đề quan trọng nhất trong bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là xác định những thiệt hại xảy ra mà người thực hiện hành vi trái pháp luật phải bồi thường.

Theo tinh thần Điều 609 BLDS 2005 và tiểu mục 1, mục II, Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm xác định như sau:

1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm:

a) Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế.

b) Chi phí điều trị, tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ, tiền viện phí.

c) Chi phí bồi dưỡng phục hồi sức khỏe:

- Tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ;

- Các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

- Chi phí cho việc bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe cho nạn nhân để giúp cho người bị thiệt hại nhanh chóng bình phục, gọi là tiền bồi dưỡng cho nạn nhân. Về mức bồi thường: Luật không quy định cụ thể nhưng trên thực tiễn xét xử nhiều vụ án thì việc xác định mức bồi dưỡng căn cứ vào mức độ, tính chất của thương tích cũng như dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân đang điều trị thương tích. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xác định khoản tiền bồi dưỡng phù hợp với tính chất của việc nhằm đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ.

Tất cả những chi phí nói trên đều được dựa trên cơ sở hóa đơn chứng từ hợp lệ theo chỉ dẫn của bác sỹ hoặc yêu cầu của bệnh viện, cơ quan trực tiếp cứu chữa cho nạn nhân. Đối với những trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan việc cứu chữa của nạn nhân cần nhanh chóng kịp thời mà phải điều trị cứu chữa tại chỗ thì mọi chi phí cũng cần phải có sự xác nhận của chính người trực tiếp cứu chữa.

Mặc khác, chi phí điều trị hợp lý là những chi phí cần thiết theo mức thông thường đảm bảo được khả năng cứu chữa và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân, còn những trường hợp điều trị không theo sự hướng dẫn của bác sĩ, dùng thuốc để điều trị bệnh khác, nằm điều trị ở những phòng dịch vụ đắt tiền... thì chi phí này không được coi là “hợp lý”.

2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị

Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

Thu nhập thực tế bị mất = thời gian điều trị  x  tiền lương (tiền công)/ tháng.

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

Thu nhập thực tế bị mất = thời gian điều trị  x  tiền thu nhập bình quân/ tháng.

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

Thu nhập thực tế bị mất = thời gian điều trị  x tiền thu nhập trung bình của lao động cùng loại/ tháng.

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường.

b) Phương pháp xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn nói trên. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

Ví dụ 1: A là thợ may. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 3 triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất. Cách tính thu nhập bị mất 3.000.000 đồng.

Ví dụ 2: B làm công cho một doanh nghiệp. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 6 triệu đồng trên tháng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 3 triệu đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 3 triệu đồng.

Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 2 triệu 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị

a)  Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

Thu nhập thực tế bị mất = thời gian chăm sóc x tiền lương (tiền công)/ tháng.

- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

Thu nhập thực tế bị mất = thời gian chăm sóc  x  tiền thu nhập bình quân/ tháng.

- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

- Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần, khoản tiền này được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

- Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ đau thương buồn phiền, sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân… để quyết định. Theo Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP mức bồi thường tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.


Bài viết xem thêm