Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đang tồn tại

Nếu căn cứ vào Điều 18 và Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, việc đương sự tự phân chia tài sản hay Toà án phân chia tài sản, khi hôn nhân đang tồn tại và các tài sản khác mới tạo lập sau khi hai người đã sống riêng, đến khi ly hôn các tài sản đó vẫn còn, đều được coi là tài sản chung để chia.

Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng, theo Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại trước pháp luật, các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa vợ chồng theo luật định vẫn có ý nghĩa chi phối cả hai bên. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 không quy định rõ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ các tài sản được chia trong thời kỳ hôn nhân hoặc các tài sản do mỗi bên tạo lập sau khi đã chia tài sản chung là tài sản riêng. Vì lý do đó khi vợ chồng ly hôn các Toà án vẫn coi tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng, đồng thời áp dụng Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 để xét xử.

Tuy nhiên, sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năn 2000 ra đời thì cần phải có nhận thức mới và hướng giải quyết đã có khác về cơ bản so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

Tại Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lư do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.”

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3-7-2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (sau đây gọi tắt là Nghị định số 70) tại Điều 6 quy định về chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là:

“1. Thoả thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung sau đây:

a) Lý do chia tài sản;

b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia;

c) Phần tài sản còn lại không chia, nếu có;

d) Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;

đ) Các nội dung khác, nếu có.

2. Văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.

3. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về việc chia tài sản chung, thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.”

Tại Điều 10 Nghị định số 70 đã quy định về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung như sau:

“1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản.

2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.

3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.”

Theo quy định tại Điều 29 nêu trên thì chỉ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong các trường hợp sau:

- Trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng;

- Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng;

- Có lý do chính đáng khác; ví dụ: tuổi đã già, tuy có mâu thuẫn nhưng không muốn ly hôn mà chỉ có yêu cầu chia tài sản chung để ở với một người con nào đó…

- Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản sẽ không được pháp luật công nhận.

Chưa có điều luật nào quy định nguyên tắc chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại. Nhưng có thể hiểu, cũng áp dụng tương tự như trường hợp chia tài sản khi vợ chồng ly hôn.

Sau khi chia tài sản chung, quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại. Dù vợ chồng sống chung hay ở riêng không làm hạn chế các quyền nhân thân giữa vợ, chồng. Vợ chồng vẫn phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo luật định.


Bài viết xem thêm