Tài sản chung vợ chồng được hình thành từ việc được tặng cho

Đối với trường hợp được tặng cho chung thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Vợ chồng có thể được tặng cho tài sản thông qua hợp đồng bằng văn bản, và cũng có thể là hợp đồng miệng, hay còn gọi là tặng cho trên thực tế.

Sở dĩ gọi là “tặng cho trên thực tế” vì việc tặng cho này không thể hiện bằng văn bản, mà chỉ nói miệng trong nội bộ gia đình và chỉ thể hiện rõ trong quá trình chuyển giao trên thực tế.

Do đó, khi vợ chồng ly hôn, một bên khai tài sản chung do được bố mẹ cho, một bên khai không phải là tài sản chung của vợ chồng. Phía bố mẹ cũng đứng về phía con, khai là chỉ cho sử dụng chứ chưa cho. Đây là một vấn đề rất phức tạp. Vì vậy, đối với các trường hợp này, việc thu thập chứng cứ đầy đủ, đánh giá chứng cứ toàn diện, khách quan là việc làm cực kỳ quan trọng. Khi đã đủ căn cứ kết luận là vợ chồng đã được cho trong thực tế (Ví dụ: Vợ chồng đã xây nhà 5 tầng trên diện tích đất, có khuôn viên riêng, vợ chông đã quản lý, sử dụng trong nhiều năm hoặc đã kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, bố mẹ biết, nhưng không phản đối hoặc đồng ý cho con đi kê khai, xin cấp giấy v.v…) thì phải xác định là tài sản chung.

Tài sản chung có được có thể là do cùng được tặng cho nhà tình nghĩa, được nhà nước, tổ chức, cá nhân hỗ trợ cho gia đình nghèo…

Đối với việc tặng cho được thể hiện bằng văn bản, thông thường việc thu thập, đánh giá chứng cứ rất thuận lợi, nhưng khi xét xử nếu không nghiên cứu kỹ văn bản tặng cho cũng sẽ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, như trong văn bản tặng cho có ghi tên của cả hai vợ chồng, song ở phần bên được tặng cho lại chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì đó không phải là tặng cho chung.


Bài viết xem thêm